|
Tết Trung Thu tại Việt Nam không biết có
tự bao giờ, không có sử liệu nào nói rõ về gốc tích của ngày lễ rằm
tháng Tám. Nhiều người cho rằng đây là một nét văn hóa du nhập từ Trung
Quốc trong thời gian Việt Nam bị phương Bắc đô hộ
Ở Trung Hoa, Tết Trung Thu đã có từ thời
Đường Huyền Tông (Đường Minh Hoàng), đầu thế kỷ thứ 8. Theo truyền
thuyết, sau khi dẹp xong An Lộc Sơn, Đường Minh Hoàng nhớ thương Dương
Quý Phi không nguôi. Đêm rằm tháng tám, gió mát, trăng tròn thật đẹp,
một vị tiên xuất hiện tình nguyện đưa vua đi gặp quý phi. Vị tiên hóa
phép tạo một chiếc cầu vồng, một đầu giáp cung trăng, một đầu chấm mặt
đất, nhà vua trèo lên cầu vồng đi lên cung Quảng, nhìn thấy quý phi xưa
trong đoàn vũ. Trở về trần thế, vua luyến tiếc cảnh cung trăng đầy thơ
mộng, đặt ra tết Trung Thu. Trong ngày tết này, lúc đầu chỉ uống rượu
thưởng trăng nên còn gọi là Tết Ngắm Trăng.
Ở Việt Nam, ngày tết Trung Thu được diễn
tả trong tục: “ban ngày làm cỗ cúng gia tiên, tối đến bày cỗ thưởng
Nguyệt. Đầu cỗ là bánh mặt trăng, và dùng nhiều thứ bánh trái hoa quả,
nhuộm các màu sắc, sặc sỡ xanh, đỏ, trắng, vàng. Con gái hàng phố thi
nhau tài khéo, gọt đu đủ thành các thứ hoa nọ hoa kia, nặn bột làm con
tôm con cá coi cũng đẹp”. Theo các nhà khảo cổ học thì Tết Trung Thu ở
Việt Nam có từ thời xa xưa, đã được in trên mặt trống đồng Ngọc Lũ. Còn
theo văn bia chùa Đọi năm 1121 thì từ đời nhà Lý, Tết Trung Thu đã được
chính thức tổ chức ở kinh thành Thăng Long với các hội đua thuyền, múa
rối nước và rước đèn. Đến đời Lê - Trịnh thì Tết Trung Thu đã được tổ
chức cực kỳ xa hoa trong phủ Chúa mà “Tang thương ngẫu lục” đã miêu tả.
Nghiên cứu về nguồn gốc Tết Trung Thu,
theo học giả P.Giran (trong Magiet Religion, Paris, 1912) thì từ xa xưa,
ở Á Đông người ta đã coi trọng Mặt Trăng và Mặt Trời, coi như một cặp
vợ chồng. Họ quan niệm Mặt Trăng chỉ sum họp với Mặt Trời một lần mỗi
tháng (vào cuối tuần trăng). Sau đó, từ ánh sáng của chồng, nàng trăng
mãn nguyện đi ra và dần dần nhận được ánh dương quang - trở thành trăng
non, trăng tròn, để rồi lại đi sang một chu kỳ mới. Do vậy, trăng là âm
tính, chỉ về nữ và đời sống vợ chồng. Và ngày Rằm tháng Tám, nàng trăng
đẹp nhất, lộng lẫy nhất, nên dân gian làm lễ mở hội ăn Tết mừng trăng.
Còn theo sách “Thái Bình hoàn vũ ký” thì: “Người Lạc Việt cứ mùa thu
tháng Tám thì mở hội, trai gái giao duyên, ưng ý nhau thì lấy nhau”. Như
vậy, mùa thu là mùa của thành hôn.
Việt Nam là một nước nông nghiệp nên nhân
lúc tháng Tám gieo trồng đã xong, thời tiết dịu đi, là lúc “muôn vật
thảnh thơi” (bia chùa Đọi 1121), người ta mở hội cầu mùa, ca hát vui
chơi Tết Trung Thu
Theo sử sách, Tết Trung thu đã có cách
đây ít nhất 2.000 năm. Từ thời cổ xưa, các vị vua chúa có tục lệ tế mặt
trời vào mùa xuân, tế mặt trăng vào mùa thu.
Theo Âm lịch, ngày 15 tháng 8 là chính
giữa mùa thu được coi là ngày "lành" để làm lễ tế thần mặt trăng.ở nước
ta và một số nước châu á khác, ngày 15 tháng 8 Âm lịch hằng năm được lấy
làm ngày Tết Trung thu. Tục lệ ăn bánh hình mặt trăng trong dịp Tết
Trung thu đã có từ thời Bắc Tống ở Trung Quốc, cách đây trên 1.000 năm.
Trong đêm 15 tháng 8 Âm lịch hằng năm, khi trăng rằm tỏa sáng, lễ tế
thần mặt trăng bắt đầu. Trên bàn thờ có hoa quả, có bánh hình mặt trăng
còn gọi là bánh "đoàn viên", bởi lẽ, trong dịp này, cả gia đình có dịp
đoàn tụ để cùng ăn bánh và cùng thưởng thức ánh trăng thu trong trẻo và
bầu không khí ấm áp của đêm rằm đến với mọi nhà.
Đêm Trung thu, các em rước đèn, múa sư
tử. Ngoài Bắc gọi là múa sư tử, trong Nam gọi là múa lân. Lân còn gọi là
kỳ lân. Kỳ là tên con đực, lân là tên con cái. Lân là con vật đứng thứ
hai trong tứ linh: long (rồng), lân, qui (rùa), phụng (phượng hoàng).
Lân là con vật thần thoại, thân hươu, móng ngựa, đuôi bò, miệng rộng,
mũi to, có một sừng ở ngay giữa trán, lông trên lưng ngũ sắc, lông dưới
bụng màu vàng.
Tục truyền, lân là con vật hiền lành, chỉ
có người tốt mới nhìn thấy nó được. Thoạt nhìn, đầu lân giống đầu sư
tử. Do vậy, người ta gọi múa lân thành múa sư tử. Ở một vài địa phương,
có tục các em rước đèn kéo quân trong dịp Tết Trung thu. Đèn kéo quân
hình vuông, cao khoảng 80cm, rộng mỗi bề khoảng 50cm. Bốn mặt đều phết
giấy Tàu bạch như giấy bóng mờ hiện nay. Phía trên và phía dưới có đường
viền sặc sỡ. Bên trong có một tán giấy hình tròn. Khi đốt đèn, hơi lửa
bốc lên, tán giấy xoay quanh. Đèn kéo quân còn gọi là đèn chạy quân vì
hình đoàn quân cứ liên tục kéo đi, chạy đi không ngừng hết vòng nọ đến
vòng kia. Chỉ khi nào đèn hết dầu (nến), đèn tắt thì các tán không quay
nữa. Đèn có bốn mặt, hình ảnh xem ở mặt nào cũng được.
Trẻ em rất thích ăn bánh Trung thu, múa
lân và rước đèn kéo quân. Từ đó, Tết Trung thu nghiễm nhiên trở thành
Tết của các em từ hàng ngàn năm nay.
Nguồn http://vn2z.net
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét