W. Robert Moore &
Maynard Owen Williams
Ngô Bắc dịch
Đối
với Á Châu cổ xưa không yên nguôi, chiến tranh không có
gì là mới lạ. Ngày nay nó đang run sợ trước
các lực lượng ghê gớm hơn bất kỳ sức
mạnh nào khác kể từ khi các đoàn quân Mông Cổ tràn
qua phần lớn lãnh địa của nó và phóng ngựa về
phía tây vượt quá Mạc Tư Khoa.
Đông
Dương ngày nay, giống như Hàn Quốc, là một
địa điểm xáo trộn. Tại núi đồi Bắc
Việt có sương mù che phủ, chất thành dẫy áp
sát vào biên giới phía nam của Trung Hoa, giống như các
đỉnh núi cheo leo được vẽ trong các bức
tranh thời nhà Tống nổi tiếng, chiến sự
đang diễn ra.
Nơi
đây các lực lượng bí mật của An Nam, cầm
đầu bởi Hồ Chí Minh do Mạc Tư Khoa huấn
luyện và mang các vũ khí được cung cấp bởi
Cộng Sản Trung Hoa, đang thực hiện một chiến
dịch du kích có tổ chức chống lại Pháp và chính
phủ Việt Nam được thừa nhận (xem các
trang 463, 487) [tất cả số trang trong bài theo nguyên bản,
chú của người dịch].
Các bản
tin điện mang các địa danh nghe xa lạ như Lạng
Sơn, Cao Bằng, Lộc Bình, và Lào Kay, bởi quân lính Pháp
đồn trú tại Đông Dương đã bị buộc
phải từ bỏ các tiền đồn bảo vệ
các đèo núi hẹp trài ra như các ngón tay của lòng bàn tay
phẳng, xòe ra từ châu thổ sông Hồng nhiều lúa gạo.
Địa Lý Nhân Văn Bằng Tranh Vẽ
16 trang kèm
theo gồm các bức tranh vẽ bởi Jean Despujols mang lại
một chân dung con người và địa dư của
vùng đất đang lâm chiên này.
Đã dành
được Giải Hội Họa Đông Dương,
lập ra bởi Hội Đồng Kinh Tế của Chính
Quyền Đông Dương, nhà họa sĩ người
Pháp nhiều tài năng này, nay là một công dân Hoa Kỳ,
đã sống hai năm tại xứ sở đó ngay
trước khi có Thế Chiến II. Trong hai năm đó,
ông ta sáng tác hơn 300 bản phác họa và tranh vẽ (trang
465).
Tranh
sơn dầu, màu nước, và bản vẽ của ông
thu giữ được bàu không khí của rừng rú ẩm
thấp vùng Đông Dương, vẽ lại các con
đường uốn khúc của nó len lỏi giữa các
cánh đồng lúa bóng loáng gương nước và vách
đá lởm chởm, và phác họa chân dung người dân
của nhiều bộ tộc quần tụ tại phần
đất này của Đông Nam Á, một khu vực lớn
hơn tiểu bang Texas một chút.
Để
tìm kiếm nhiều đề tài của mình, ông đã thâm
nhập vào các phần khó tiếp cận nhất của xứ
sở. Ông đã du hành từ các cánh đồng của
Căm Bốt, xuyên qua các vùng đồi xô đẩy nhau của
Lào, và đến các đỉnh núi Bắc Kỳ nơi mọc
lên các ngôi làng biệt lập của người dân núi
đồi mặc quần áo có màu sắc vui tươi –
người Mèo, người Mán, người Lô Lô và người
Thái.
Ông đã
kết bạn với các tù trưởng bộ tộc và
dân làng trong số các bộ lạc người Mọi thuộc
các khu vực chưa được bình định tại
phía nam rặng núi Trường Sơn (Annamese Cordillera), trải
qua một trận bão ven biển, bị quăng vào các luồng
nước chảy xiết nguy hiểm của con sông Cửu
Long và sông Nam Te [Nậm Tè ?] (Noire: sông Đen?, tức sông
Đà?), và mệt nhoài trong sự ẩm thấp nhiệt
đới khiến cho việc làm khô ráo các bức tranh của
ông gần như bất khả.
Trong các cảnh
quan của Despujols, không có kẻ thù nào đáng sợ hơn
là con hổ (các trang 470, 474). Các người mẫu của
ông phản ảnh sự êm ả Đông Phương,
hơn là sự lo sợ giương to đôi mắt. Các bức
vẽ của ông mang lại một cái nhìn thời bình của
Đông Dương, giờ đây trở nên u ám bởi bóng
tối của chiến tranh.
Đối
với chúng tôi, các người đang viết các dòng chữ
này, các bức tranh của Despujpols chụp lại các bè bạn
của chúng tôi và các nơi chốn chúng tôi hay biết, bởi
chúng tôi đã rong ruổi khắp Đông Dương trong thời
bình và kể từ khi chiến tranh xảy đến. *
Những Người Đàn Bà Uyển Chuyển
và
Các Quan Chức Mặc Áo Có Hình Con Rồng
Đối
với chúng tôi, một Hà Nội, Huế, Phnom Penh, Vạn
Tượng, Luang Prabang, và Sàigòn hương xa là các địa
điểm sống động gợi nhớ người
dân da vàng chen chúc chật cứng các ngôi chợ, các người
đàn bà An Nam mang quần uyển chuyển và các quan chức
mặc áo có thêu hình rồng rảo bước tại các triều
đình thiết chế theo kiểu Trung Hoa, và các nông dân nhẫn
nại vái lạy thần đất bên cạnh sông Hồng
và con sông Cửu Long dũng mãnh.
Tại một
số nơi, nhà cửa của họ bị san bằng bởi
chiến sự hay bởi chiến thuật tiêu thổ kháng
chiến của các kẻ theo ông Hồ Chí Minh, phe Việt
Minh. Các địa điểm này cũng gợi nhớ sự
hiếu khách của người dân Căm Bốt cởi mở
có tổ tiên Khmer cao quý đã dựng lên các đền
đài nguy nga tại Angkor, và đến các ông hoàng và thường
dân Lào thân thiện.
Để
hiểu được địa thế và dân chúng của
nó, trước tiên hãy cứu xét xem tại sao lại có tên
Indo-China (Đông Dương).
Ảnh 1: Phố
Catinat, hai bên đường chạy dài các hàng cây và cửa
hiệu, là Đại Lộ Champs Elysées của Sàigòn mang
hương vị Paris.
Đông
Dương, được chạm khảm bởi văn
hóa Ấn Độ và Trung Hoa, bao gồm Quốc Gia Việt
Nam bị chiến tranh tàn phá và các Vương Quốc
tương đối hòa bình, Căm Bốt và Lào. Sàigòn, thủ
đô của Việt Nam, biết được mùi sự
khủng bố của Cộng Sản; các quả lựu
đạn được ném không hề báo trước vào
các quán bán cà phê và rạp hát của nó. Các chiếc xich lô
đạp thay thế cho các xe kéo kiểu cũ. Cô gái gốc
Trung Hoa này, quay về nhà với các bông hoa và thực phẩm,
đang ngồi trên một chiếc xích lô như thế.
Ảnh 2: Ba Hàng Giáo Bằng
Tre Tua Tủa Bảo Vệ Quản Lợi [?], Một Tiền
Đồn Quân Sự
Ở
các nơi khác, các tháp cao bằng gạch, canh gác bởi lính
Pháp và Việt Nam, bảo vệ các xa lộ và các chiếc cầu
chống lại các cuộc đột kích của quân Đỏ
[cộng sản], các kẻ đến cướp phá, đốt
cháy và giết chóc, sau đó trốn lại vào trong các khu rừng.
Một số làng có hàng rào dậu bằng cây gỗ.
Ấn
Độ và Trung Hoa là các nguồn gốc văn hóa của
nó. Đằng sau các ngọn tháp đồ sộ của
vùng Angkor huyền bí, vươn lên từ phế tích trên khu
rừng gần Tonle Sap, hay Biển Hồ (Great Lake), tại
miền trung Căm Bốt, ẩn hiện văn hóa cổ
thời của Brahmans được du nhập từ Ấn
Độ (trang 490).
Brahmans
cũng giám hộ người Chàm, dân tộc với các ngọn
tháp bằng gạch và khoảng 100,000 người là tất
cả nhưng gì còn sót lại của một vương quốc
một thời hùng mạnh tại vùng duyên hải giờ
đây là một phần của Trung Kỳ (An Nam). Xa
hơn về phía bắc, văn hóa Trung Hoa định khuôn
cho sinh hoạt triều đình tại Huế.
Xin lưu
ý rằng từ ngữ “mandarin: quan lại” và
đối với phần lớn người ta, nó để
chỉ một viên chức của Đế Triều Trung
Hoa. Nhưng trong ngữ căn của nó, từ ngữ là một
chữ gốc tiếng Phạn (Sanskrit) từ Ấn Độ,
và từ lâu đã du hành lên phía bắc dọc theo Con
Đường Cái Quan (Mandarin Road) cổ xưa của
Đông Dương, mà người Pháp đã đặt lại
tên là “Đường Thuộc Địa Số 1: Route
Colonial No. 1”.
Các giáo
sĩ Bà La Môn gốc Ấn Độ, các kẻ đã bật
sáng thiên tài bản xứ của các người Khmers thời
ban sơ, và các viên chức Trung Hoa, các kẻ cho người
An Nam mượn văn hóa của họ, không phải là các
kẻ duy nhất đến đây. Tổ tiên của vùng
Đông Dương cũng có gốc rễ tại núi đồi
Tây Tạng, từ các cánh đồng Mông Cổ gió quét ngang,
và từ các hòn đảo Indonesia, như các tranh vẽ của
Despujols cho thấy.
Tại
vùng đất có di sản chủng tộc phong phú này,
người An Nam cần cù đã dành được vị
thế chế ngự. Việt Nam, khôi phục danh xưng
cổ xưa của nó, mang nghĩa “Dân [Việt] ở
phương Nam”, bao gồm các phần trước chiến
tranh là Bắc Kỳ (Tonkin), Trung Kỳ (An Nam) và Nam Kỳ
(Cochin-China), tạo thành bờ biển hình chữ S ở
phía đông. Tại Quốc Gia này, đang bị đe dọa
bởi chiến tranh, có khoảng 22,000,000 người. **
Các
Vương Quốc Căm Bốt và Lào, chiếm cứ nửa
phần nội địa phía tây của xứ sở, chỉ
có số dân tổng gộp hơn 5,000,000 người một
chút. Chúng tương đối vẫn còn hòa bình và tự
quản, nhưng đã sẵn có sự bắn tiếng rằng
chúng cũng phải được “giải phóng”.
Người
Lào và các thị tộc anh em sơ khai hơn của họ
rải rác khắp các thung lũng miền bắc Bắc Kỳ
cho thấy phương cách mà các sắc dân của Á Châu cổ
xưa đã di chuyển. Họ là các thành viên của chủng
tộc Thái (Tai) bao trùm, trong đó có cả người Xiêm
La và người Shan ở Miến Điện.
Nhiều
thế kỷ trước đây, họ cư ngụ tại
miền nam nước Trung Hoa trước khi miền này
thuộc vào Trung Hoa. Nhiều người vẫn còn ở
lại đó. Áp lực kéo dài, và cuộc càn quét của các
đội quân của Kublai Khan (Hốt Tất Liệt), kẻ
mà Marco Polo đã phục vụ như “thông tín viên chiến
tranh” gốc Âu Châu duy nhất, đã phá vỡ các
vương quốc được tổ chức của họ
và đã đẩy nhanh cuộc di dân về phương
nam.
Miền Đất Với Các Ngôi Nhà Trên Sườn
Đồi
Các bộ
tộc khác đã di chuyển trên cùng lối đi tìm kiếm
nơi trú náu này.
Các bộ
tộc người Mán, hay người Dao (Yao), theo bước
chân người Thái tiến vào miền bắc Lào và Bắc
Kỳ, nhận thấy các người đi trước
đã sẵn chiếm ngụ các thung lũng; vì thế, họ
đã dựng nhà của mình trên các sườn đồi.
Người Mèo, người Lô Lô, và các sắc dân khác đã
đến kể từ đó để định cư
tại phần sườn cao hơn của các ngọn
núi. Dân chúng Đông Dương chính vì thế đã trở
thành một cuộc khảo sát theo cạnh xiên thẳng của
kim tự tháp cũng như một sự khảo sát về
sự bành trướng theo chiều ngang.
Chúng ta
cũng học hỏi về thể cách mẫu hệ, khi
leo lên các ngọn đồi. Các người đàn ông các bộ
tộc núi đồi thường chấp nhận y phục
của người dân vùng đồng bằng. Nhưng các
phụ nữ không như thế! Y phục của phụ nữ
thật quá đặc sắc và nhiều màu sắc đến
nỗi người ta phải lệ thuộc nhiều vào
thời trang hơn là đặc tính để nhận biết
một thị tộc.
Vẻ
đẹp của ngời Mán Tiền với tóc bôi dầu
được chải cầu kỳ và bới cao, đồ
trang sức được đánh bóng kỹ lưỡng,
và váy xòe đáng ngưỡng mộ. Họ khó có thể bị
nhầm lẫn với chị em họ Mán Cốc, các
người ưa thích các chiếc quần thêu kiểu ô
vuông bàn cờ, các búp chỉ sợi màu đỏ tươi
trên áo của họ, và một chiếc khăn bịt đầu
nhiều màu sắc.
Bên cạnh
họ người Mèo trông giống như một nữ
sinh với áo bẻ cổ của thủy thủ, váy ngắn,
và chiếc nón rộng. Chiếc nón này được quấn
nhiều lớp chồng lên nhau quanh búi tóc cho đến khi
nó nhô ra, như chiếc bánh kẹp phẳng phiu, quanh đầu.
Ngay
người Mèo cũng được phân chia thành nhiều
nhóm, Đen, Trắng, Đỏ và Hoa, tùy theo loại y phục
mà người đàn bà mặc. Cô gái người Mèo mở
to đôi mắt mà Despujols vẽ mang trên tóc của mình một
cuộn khăn quấn làm bằng đuôi ngựa bện
vào nhau (trang 471).
Ảnh 3: Trang Phục
Chứ Không Phải Gương Mặt Xác Định Các Bộ
Tộc Miền Núi Đồi Bắc Kỳ
Đối
với các chuyên viên, các trang phục muôn đời này
được dùng như các thước đo cao độ,
bởi mỗi thiếu nữ thường sống ở một
mức độ núi cao khác nhau. Người Mèo Trắng e
lệ (bên trái) đội mũ quấn vòng tròn và mặc áo
cổ bẻ như thủy thủ. Người Mán Tiền
che kín bắp chân với chiếc mũ giống như cái
diều, có vẻ sẵn sàng cất cánh khi gặp làn gió lên
cao đầu tiên. Chị em Mán Cốc của cô đội
khăn quấn, đính các búp bằng sợi mềm màu
đỏ, và mang quần dệt hình ô vuông bàn cờ. Cả
ba đều có chung sự ưa thích các chiếc kiềng
đeo cổ bằng bạc.
Sự
nhận biết các thị tộc cũng có thể dựa
vào lông mày! Trong số các phụ nữ người Mán, lông
mày hiếm khi lộ ra, nhưng dưới mái tóc người
Nùng, vật nổi lên như một chiếc khăn gấp
sáng chói trên khuôn mặt, là cặp lông mày được uốn
nắn tuyệt vời như thể chúng được cắt
tỉa ở một thẩm mỹ viện chứ tranh không
từ một túp lều miền núi.
“Mán”
có nghĩa “Man Rợ: Barbarian” trong tiếng Hán hay “Hoang Dã;
Savage” trong tiếng Việt. Một tên gọi chính xác
hơn cho bộ tộc là Kim-mien [?], có nghĩa “Người
Miền Núi: Mountaineers”. Trong số các thị tộc người
Mán này có người Mán [có] “Sừng: Horns” (Mán Cốc),
người Mán [có] “Tiền Trung Hoa: Chinese Money” (Mán Tiền)
[có tiền đồng Trung Hoa đính trên áo của họ,
chú của người dịch]; và những người có
“Bảng Lớn: Large Boards” [?], người mang “Quần Trắng:
White Pantaloons” [?], của “các Làng Trên Cao: High Vollages” , “Kẻ
Hung Dữ: Ferocious Man” [?], và nhiều nhóm khác!
Người Thái Trắng và Người Thái
Đen
Thái Trắng
nghe có vẻ trịnh trọng hơn Thái Đen, nhưng ở
đây là trường hợp ngược lại. Người
Thái Đen đã ghi chép ngôn ngữ của mình bằng thỏi
mực và bút lông. Họ nâng niu các kẻ trung thành với chế
độ phong kiến và ít nghiêng về việc trở
thành người Việt Nam như là Thái Trắng. Các bức
tranh của Despujols về Thái Đen và Thái Trắng phát hiện
rằng họ là chị em, ngoại trừ sự khác biệt
về màu sắc của các chiếc áo (trang 481).
Điều
được ước lượng rằng ba phân tư
vùng thượng du Bắc Kỳ được cư ngụ
bởi người Thái, bởi nơi đây, ngoài Thái Trắng
và Thái Đen, còn có người Thổ, Nùng (Giai) [Giáy?], Nhang
[?], và nhiều thành phần khác của chủng tộc
đó.
Bởi có
xáo trộn được mưu tính tại các đồi
núi Bắc Kỳ này, nhiều phần trong các nhóm này đã kết
hợp với nhau thành một Liên Bang Thái, dưới sự
lãnh đạo của một ông hoàng thế tập, và
đã bày tỏ rằng họ sẽ kháng cự lại bất
kỳ sự xâm nhập và chiếm đóng nào trên các phần
đất của họ.
Chống
lại súng máy và súng cối, các khẩu súng rèn bằng tay và
cung tên không mấy hữu dụng, nhưng dân miền núi có
một truyền thống ngoan cường về tự do.
Tại
các ngôi làng bộ lạc biệt lập, người dân sống
tại nhà và canh tác các loại cây như ngô, lúa mạch,
khoai, và đôi khi cây thuốc phiện bằng cách phá rừng.
Một số trong các túp lều thô sơ của họ
được dựng trên các cọc cắm trên sườn
đồi; các nhà khác được dựng trên nền
đất.
Dân chúng
thì e lệ nhưng hiếu khách. Một người trong
chúng tôi vẫn nhớ cử chỉ thân thiện của việc
được biếu tặng hai trái trứng gà bởi một
tù trưởng làng Mèo; tại ngôi làng tí hon của ông, trứng
gà thì hiếm hoi.
Phải
thú nhận rằng được chụp ảnh các phụ
nữ bẽn lẽn, ăn mặc y phục tươi
vui, hay nhìn thấy các đàn ông Mèo nhảy múa trong điệu
xoay vòng như giáo sĩ Hồi Giáo theo âm thanh đơn giản
của kans [kèn ?] ống tre thì thú vị hơn việc trải
qua đêm trong các ngôi nhà um khói, nơi mà các con lợn thường
tụ do qua lại. Các ngôi làng trên đồi, trông thơ mộng
từ đàng xa, có thể dơ bẩn đến khó tin.
Cao điểm
trong kinh nghiệm của Williams [một trong hai tác giả,
chú của người dịch] với người dân bộ
tộc này xảy ra trong một hôm khi ông đi xe lên vùng
Nguyên Bình [?] và Thất Khê.
Hàng
trăm dân làng đi xuống thị trấn, nhiều
người mặc lễ phục đẹp nhất của
họ. Đàng trước các máy chụp ảnh của
ông, họ đứng với bàn chân miễn cưỡng và
khuôn mặt cúi xuống , bởi bất kể y phục bắt
mắt của họ, các trinh nữ miền núi trẻ trung
thì e thẹn.
Tuy nhiên,
giữa họ với nhau, dân trong bộ tộc có thể sống
vui vẻ. Các trai trẻ và thiếu nữ, tham dự một
trò chơi có vẻ như một trò kết hợp bắn
ná và bắn cung của David, cười đùa và la hét với
một niềm vui hồn nhiên. Kết thành từng đôi,
họ lần lượt ném các quả tạ có đuôi dài
vào một mục tiêu bằng giấy trên cao, và sẽ không
hài lòng cho đến khi họ quăng trúng nó. Nếu một
người ném không trúng mục tiêu, kẻ kết bạn cố
gắng tóm bắt quả tạ phía đàng đuôi trước
khi nó chạm mặt đất.
Đó là một
cơ hội để các thanh niên nam nữ biểu diễn.
Trong thực tế, các thiếu nữ cũng điệu
nghệ không kém trong sự nhanh nhẹn của bàn chân trần.
Trong niềm thích thú của trò chơi, các thiếu nữ thắt
eo, nâng cao bộ ngực này biểu lộ năng lực và
sự tao nhã của thể thao thế vận hội
Olympia, và bày tỏ một tình đồng đội vui
tươi.
Ảnh 4: Họa
Sĩ, trong Phòng Vẽ, Kiểm Tra Một Kiện Hàng Chở
Về Pháp, Các Bức Tranh Đông Dương Quý Giá Của
Ông.
Jean
Despujols sáng tác khoảng 300 họa phẩm tại Đông
Dương. Ông mang chúng về sinh quán tại Pháp ngay khi Thế
Chiến II bùng nổ. Về sau ông trở thành công dân Hoa Kỳ.
Tại đây, trong năm 1948, tuyển tập của ông
được chở đến Shreveport, Louisiana. Ba trong
số các bức tranh này, kể cả bức săn hổ,
được sao chụp nơi các trang 467, 474, 479
“Bàn Cờ” Nơi Các Thiếu Nữ Là “Con Cờ Đàn Ông”
Một
trò đánh cờ, được chơi giữa người
Mán Cốc và Mán Tiền, thì tân kỳ. “Bàn cờ” là một
mảnh ruộng, được vạch thành các ô vuông bởi
các thanh tre dài, chẻ đôi. Các thiếu nữ mang đồ
trang sức bằng bạc và các búp sợi chỉ là các “con
cờ”.
Họ di
chuyển từ ô vuông này sang ô vuông khác theo bước
đi của các chủ tướng chơi cờ, ngồi
dưới một nơi trú náu sơ sài gần đó. Khi
một con cờ -- tức thiếu nữ -- bị ăn,
cô ta rời bàn cờ và nhập vào các khán giả.
Các niềm
vui đơn giản, thưa đúng vậy. Nhưng ở
đây là một trò giải trí vui tươi cho một
người cầy cấy trên các nương đồi
ban ngày.
Ngày chợ
phiên tại các thị trấn yên tĩnh mang một bàu không
khi hội chợ của huyện [county fair, ở Hoa Kỳ,
chú của người dịch], với các trò chơi cờ
bạc và các màn trình diễn của các diễn viên người
An Nam xen kẽ. Với bộ lông đẹp đẽ và lớp
lụa mềm mại, các dân làng thực khó để mô tả,
thực sự trở thành các con chim đẹp. Và các ban nhạc
của họ, ít nhất, thì ồn ào!
Thật
là một hành trình không được đo bằng số
dặm đường khi quay trở về, từ các ngôi
làng đồi núi hay các thị trấn vùng nông thôn, để
tham dự một buổi tiệc rượu hay một cuộc
uống trà khiêu vũ tại Hà Nội, tự nó phân chia
thành một thành phố Âu Châu được xây dựng
đẹp đẽ với một thị trấn bản
xứ nơi mà các cô gái bán hoa [mặc quần áo] nhăn
nheo bày một chuỗi các bó hoa dọc theo bờ một cái
hồ trong phố. Thủ đô một thời hòa bình này
đã ít bị tổn hại bởi chiến tranh.
Nhưng một
vài điều gì khác hiện ra khi lấy xe đi qua vùng
thôn quê bao quanh Hà Nội và nhìn thấy các đường lộ
được canh gác bởi các binh sĩ có vũ trang, và
để thăm viếng các ngôi làng và các thị trấn
đã bị tàn phá đến nỗi không còn viên gạch nào
chồng lên viên gạch khác.
Các binh
sĩ của ông Hồ Chí Minh đã buộc dân làng phải
đập phá các ngôi nhà của chính mình khi họ rút quân
trước người Pháp hai năm trước đây,
sau đó thường ra lệnh rằng các viên gạch và gỗ
cũng phải được mang đi. Tại một
vài thị trấn, bị bỏ rơi trong sự vội
vã, các tháp chứa nước và các công ốc chính bị phá
nổ tung để ngăn cản chúng còn được
sử dụng bởi người Pháp.
Điều
được nói rằng lực lượng nào kiểm
soát được hai đồng bằng nhiều lúa gạo
của Bắc Kỳ và Nam Kỳ sẽ kiểm soát
được toàn thể Việt Nam. Vào lúc chúng tôi
đang viết, phần lớn hai khu vực này nằm
dưới sự kiểm soát của binh sĩ Pháp và Việt
Nam, ngoại trừ việc bắn sẻ, chính sách tiêu thổ,
và các cuộc đột kích ban đêm.
Người
ta nhìn thấy ít nụ cười hơn trên khuôn mặt của
các nông dân có nhà ở bị tàn phá, và có con trâu nước bị
hạ sát để làm thịt bởi lính Nhật Bản
trong Thế Chiến II hay đã bị lấy mất từ
khi đó bởi các lực lượng Việt Minh.
Nhưng ngày nay, như mãi mãi, cái lưng của người
nông dân đang còng xuống trên các mảnh lúa sình lầy của
họ, để có hạt gạo vừa đủ nuôi cho
mọi miêng ăn của xứ sở.
CÁC TRANH VẼ CỦA HỌA SĨ DESJUPOLS
Tranh
1:
Angkor Đổ Nát Tái Tạo Các Điệu Múa Của Các
Vũ Công Apsarases, Các Thiếu Nữ Hợp Xướng Của
Các Vị Thần Ấn Độ Giáo
Với bức
tranh này, Tạp Chí National Geographic Magazine giới thiệu
một loạt 16 trang gồm các tranh vẽ bởi ông jean
Despujols, một họa sĩ Hoa Kỳ gốc Pháp. Trước
khi chiến tranh tàn phá Đông Dương, ông đã dành hai
năm để họa chân dung các dân tộc của nó, từ
người Căm Bốt, Việt Nam và Lào văn minh cho
đến các bộ lạc miền núi chưa bình định
xong.
Thiếu
nữ Căm Bốt này, tay cầm hoa sen linh thiêng và búp hạt
sen của nó (tay trái), đứng tại Angkor, thành phố-đền
đài Ấn Độ mà tổ tiên của cô, các người
Khmers đầy tài năng, đã xây dựng từ bẩy
đến mười thế kỷ trước đây
(các trang 468, 469, 470, 471). Trên các bức tường của
nó, họ đã chạm khắc chìm chân dung của hàng
trăm vữ công tế lễ.
Nếu diễn
viên nhảy múa tại triều đình Căm Bốt ngày
nay, cô ta sẽ thay các tấm khăn khoác ngoài sơ sài bằng
hàng thêu nặng nề, nhưng, giống như các tiền
nhân thời xây dựng Angkor, cô ta sẽ đóng các vai cổ
điển xa xưa của Ấn Độ, Mahabharata và
Ramayana.
Tranh
2:
Người Khmers Bỏ Phế Các Hành Lang Điêu Khắc
và Các Ngọn Tháp Vươn Cao ở Khu Đền Angkor
Wat; nguời Pháp Cứu Vãn Chúng Từ Khu Rừng
Tranh
3:
Các Vũ Công Sống Động, Tô Phấn Trắng Ma Quái,
Trình Diễn Tại Khu Đền Angkor Đã Chết Dưới
Ánh Đuốc.
Tranh
4:
Các Vị Thần Đã Biến Mất; Con Hổ Chiếm
Giữ Sân Ngôi Đền Của Họ. Con Hổ Không
Đứng Làm Mẫu Để Vẽ, Nhưng Tiếng Rống
Của Nó Khiến Họa Sĩ Phải Ôm Đồ Nghề
Bỏ Chạy
Tranh
5 & Tranh 6: Các người con gái của tộc Khmers và
Mông Cổ Phản Ảnh Sự Hợp Chủng của
Đông Dương.
Tranh
5, Bên Trái: Thiếu nữ Căm Bốt, một vũ
công tại Angkor Wat trong mùa đông, thuộc đoàn vũ
hoàng gia ở Nam Vang, được hướng dẫn bởi
mẹ nuôi của cô, một vị công chúa. Cô xuất hiện
trong trang phục ngày Chủ Nhật. Khu Đền Angkor
Wat hiện thân như một trong các thành tích kiến trúc
vĩ đại nhất của thế giới.
Tranh
6, Bên Phải: Cô gái Mèo ăn mặc ấm áp để
chịu đựng khí hậu buốt giá của làng miền
núi cạnh biên giới Trung Hoa của cô. Tóc cô được
quấn vào trong một cái khăn vấn bịt đầu
làm bằng lông đuôi ngựa bện lại.
Tranh
7:
Các Lá Phướn Giống Như Con Diều Của Giàn
Thiêu Xác Tạo Ra Điệu Nhạc Trong Gió Nhẹ Như
Các Chiếc Thụ Cầm (Đàn Hạc) Của Vị Thần
Gió.
Ngôi đền
tháp nhọn này, được thấy tại Siemreap, cất
giữ thân xác và giàn thiêu của một nhà sư Phật
Giáo. Mặc dù được dựng bằng tre và giấy
có thể đốt cháy, nó sẽ không bị châm lửa mà
lại được tháo gỡ đi.
Các nhà
sư Phật Giáo trong áo choàng khoác ngoài màu vàng của sự
khiêm tốn, hướng mặt về phía đền.
Người Việt Nam ngồi xổm đang ăn cơm
bán bởi một người bán hàng rong. Các người
Căm Bốt tháp tùng một vị cao tăng được
khiêng trên một chiếc kiệu
Phật tử
Căm Bốt theo phái Hinayana, hay Tiểu Thừa. Phần lớn
các người đàn ông đều phục vụ tại
các tu viện một phần đời của họ.
Tranh
8: Các Cây Dừa Đong Đưa Trong Các Làn Gió Mùa Thổi
Vào Từ Vịnh Xiêm La
Em gái nhỏ
này, bế đưa em trai nhỏ bên hông, đi theo họa
sĩ khắp nơi ông đi đến khi ông vẽ tại
làng cô bé. Bố mẹ người Việt Nam của cô bé,
có thuyền độc mộc nằm bên cạnh ngôi nhà mái
tranh của họ, là dân đánh cá, giống như các dân
làng khác.
Cuối mỗi
chiều, khi các người đàn ông quay vào từ biển,
họa sĩ nhìn thấy họ phân chia phần bắt
được giữa các người phụ nữ tùy
theo số con của họ.
Ngoài cá,
dân chúng ăn dừa và gạo. Các cây dừa che khuất tầm
nhìn thấy các cánh đồng lúa của họ.
Tranh
9:
Các Đàn Ông Radé, Miệng La “Giết Loài Giết Người”,
Tấn Công Một Con Hổ Với Các Ngọn Giáo và Cung
Tên. Con Hổ Bạn Của Nó Nằm Chết Phía Góc.
Tranh
10 & Tranh 11: Con Gái và Con Trai, Các Thành Viên Của Bộ
Lạc Davak Sơ Khai, Cắt Tóc Ngang Trán và Dũa Răng
Cho Nhọn
Người
Davak sống ở miền núi, có nguồn gốc Indonesian,
thuộc vào một nhóm dân xa xôi được gọi chung
là “Mọi”, có nghĩa “mọi rợ”. Là các kẻ săn bắn
gan dạ, người Mọi không nghĩ ngợi gì về
việc đối diện với các con hổ, voi, và thú
hoang. Một số theo mẫu hệ, chuyển giao danh tính
và tài sản qua người mẹ.
Người
thanh nam tô điểm kiểu tóc của mình với một
chiếc gương “chiếu hậu”
Tranh
12: “Dẫy Núi Với 99 Ngọn” Lởm Chởm,
“Xương Sống Của Con Rồng An Nam”, Đột
Nhiên Trổi Lên Từ Các Đồng Lúa Phẳng Như Mặt
Bàn.
Các con trâu
nước, quá chậm chạp đến nỗi chúng có vẻ
chỉ hơi nhúc nhích, đang cày đất ngập nước.
Các người đàn ông và đàn bà đang cấy mạ.
Bên trái, một chiếc thuyền đang chạy trên Sông
Đáy, một chi lưu của sông Hồng.
Quân du kich
Việt Minh cộng sản ẩn trốn vùng núi đồi
Bắc Kỳ nhiều lần đột kích các lực
lượng Pháp kiểm soát các đồng bằng.
Tranh
13 và Tranh 14: Vẻ Thanh Nhã Của Con Gái Trung Kỳ Và
Dáng Khỏe Mạnh Của Con Gái Bắc Kỳ Phản Ảnh
Sự Tương Phản Giữa Các Chủng Tộc Chị
Em Của Việt Nam
Yêu [Yến?]
(bên trái) đang trồng lúa gần Huế, nơi đặt
triều đình An Nam cũ, khi họa sĩ tìm thấy cô
ta. Ông nhận xét: “Về nét thanh tao hiển nhiên của cô,
các hoàng đế-thi sĩ trước đây là các kẻ
chịu trách nhiệm, họ đã tuyển chọn các phụ
nữ xinh đẹp nhất để phục vụ trong
triều”.
Tranh 13 post ở
đây
Xuân (bên phải)
“trở nên chua chát và cứng cỏi” bởi các sự túng
thiếu. Trồng lúa, đắp đê, và đẻ con là
số phận của cô ta. Hơi thở nhẫn nhục
có vẻ như toát ra qua đôi môi của cô.” Trong nhiều
thế kỷ, ngôi làng duyên hải của cô đã là miếng
mồi của hải tặc Trung Hoa.
Tranh
15: Người Lào Ngược Dòng Nước Xiết
Của Sông Cửu Long Trong Một Chiếc Thuyền Độc
Mộc Khoét Ruột Có Gắn Động Cơ. Các Người
Đứng Canh Trông Chừng Các Hòn Đá Lộ Ra Bởi Luồng
Nước Cạn.
Tranh
16 và Tranh 17: Các Trinh Nữ Lào (bên Trái) và Wouni Nhắc
Nhở Họa Sĩ Về Nữ Hổ Tướng và
Đức Mẹ Đồng Trinh.
Nàng Bouddhi
dịu dàng (trong khăn quàng màu vàng), trái với sự biểu
lộ quả quyết, đôi khi dữ dội của cô.
Sinh ra là người bình dân, cô ta là một nhà quý tộc
hoang sơ. Cô gái Wouni, ngọt ngào và tử tế, đã sốt
sắng đi bộ hai ngày từ ngôi làng miền núi của
cô để giữ đúng hẹn với Họa Sĩ
Despujols.
Tranh
18: Sương Tan Buổi Sáng Từ các Đỉnh
Núi Của Lào Phát Lộ Một Dòng Sông An Lành. Nhan đề
của Họa Sĩ: Thức Dậy Tại Nam Khan: Awakening
on the Nam Khan”.
Tranh
19 và Tranh 20: Toàn Thể Thị Tộc Được
Gọi là Thái Trắng (Bên Trái) hay Thái Đen, Theo Màu Áo Của
Phụ Nữ
Các người
Thái này giữ lại nhiều phong tục cổ. Các phụ
nữ bám chặt lấy các kiểu cách của tổ tiên,
cho dù đàn ông thường chấp nhận y phục An
Nam.
Cả hai
người làm mẫu đều tô điểm các áo chẽn
bằng các chiếc cúc bằng bạc. Thiếu nữ Thái
Trắng, con gái một tù trưởng, mặc một chiếc
váy bằng lụa có dấu hiệu riêng. Cô gái Thái Đen,
thực ra trắng như ngà, đeo ở dây thắt
lưng các chìa khóa của nhiều két để tiền, cho
thấy sự giàu có.
Tranh
21: Đường Lộ của Bắc Kỳ Dẫn
Đến Trung Hoa Đỏ Không Có Các Dấu Hiệu Của
Các Cuộc Giao Tranh Chua Chát Của Chiến Tranh Du Kích
Ba bộ
tộc xuất phát từ Trung Hoa hiện sinh sống tại
vùng này và canh tác các cánh đồng lúa bực thang của
nó. Họ giữ một vẻ xa cách lạ lùng với
người khác, chỉ gặp mặt tại nơi họp
chợ hay trên cao nguyên.
Các Bức Tranh Phát Lộ Các Sự Khác Biệt Về
Chủng Tộc
Mặc dù
Việt Nam hoàn toàn nằm trong khu vực xích đạo, mỏm
cực bắc của nó gần chạm đường Hạ
Chí Tuyến (Tropic of Cancer). Mùa đông của nó tiếp giáp
với khí mát lạnh lẽo. Các bức tranh của
Despujols nơi trang 477 thể hiện khí hậu mát lạnh
hơn này được phản ảnh nơi hình thể
của dân chúng, bởi người dân ở Bắc Kỳ
thì tráng kiện hơn những người xa hơn về
phía nam, nơi Việt Nam bò sâu xuống vùng Nhiệt Đới
nóng bức.
Nhưng
đã có sự khác biệt giữa cô Xuân với khuôn mặt
to của Bắc Kỳ với người chị em có
xương nhỏ nhắn hơn tại vùng gần Huế
trong các tranh vẽ của Despujols, chứ không chỉ có khác
nhau về khí hậu. Một phần vì nhiều thế hệ
được nuôi dưỡng tại các triều đình
cổ xưa của Trung Kỳ.
Trong những
năm hòa bình, khi lái xe dọc theo Con Đường Cái Quan
mà không có sự lo sợ bị phục kích, chúng tôi lấy
làm sững sờ bởi sự tương phản của
người dân ở hai bên bờ đối diện của
Ải An Nam, phần mũi núi nhọn thò đuôi cắt
ngang con lộ, khoảng giữa đường Hà Nội
và Huế.
Đứng
trên đỉnh núi, nơi có dựng lên một công trình kiến
trúc đã từng có thời đánh dấu sự phân chia Bắc
Kỳ và Trung Kỳ, người ta để lại
đàng sau phần lớn các người Bắc Kỳ gò
má rộng, lùn mập, có các người đàn bà mặc váy
màu nâu bùn, và đội các chiếc nón [quai thao, ND] phẳng,
to như bánh xe bò.
Xuôi nam là
những cô gái An Nam mảnh mai, mặc quần và áo dài may
sát người. Ở đây có các chiếc nón lớn,
nhưng có hình dạng giống như các chiếc nấm
to, chứ không phải như các khay trà phẳng lộn
ngược cao chừng ba phân Anh (inch).
Huế tự
nó mang ý nghĩa “Hòa Thuận: Concord” [?], và trong nhiều
năm nó có vẻ là một danh xưng thích hợp một
cách độc đáo. Trong lòng các cung điện cổ
kính, xây theo kiểu Trung Hoa của nó bên bờ sông
Hương thơm mùi hoa, đời sống có vẽ
tĩnh lặng và an tâm.
Khi các mùi
vị Phương Đông bốc lên từ các làn khí nóng ẩm
ướt, “sông Hương” có vẻ là một uyển từ
êm tai. Nhưng hương thơm của Huế không mang
quá nhiều mùi vị cho bằng ý nghĩa của sự hấp
dẫn về lịch sử.
Không phải
do nhà quy hoạch thành phố có tầm nhìn xa, tìm kiếm các
trục lộ mậu dịch hay các công nghiệp, đã lựa
chọn địa điểm cho thành phố. Việc
đó được làm bởi các nhà phong thủy, tìm cách
trốn thoát khỏi các ma quỷ độc ác. Giống
như ở Bắc Kinh xa xôi, nơi mà Huế thường
gửi cống phẩm đến, ba bức tường
thành đồng tâm được bổ sung cho sự bảo
vệ kinh đô, Hoàng Thành, và Tử Cấm Thành. Nhưng
các bức tường đã không bảo vệ các giấc
mơ – hay các niềm hy vọng; nhiều tòa nhà trong cung
điện mới bị đốt hồi gần đây
và các nhà kho của chúng bị cướp bóc.
Trước
khi người Pháp bắt đầu chuyển giao quyền
hành chính trị cho các nhà chức trách Việt Nam, Hoàng Đế
Bảo Đại (Greatness Sustained) đã là vị vua thế
tập nơi đây. Giò này ông trở thành Quốc Trưởng
của Việt Nam. Và với sự thay đổi chính trị
này, đã bay đi nhiều giấc mơ của Huế, dựa
vào tổ tiên hào hùng và ghi khắc “Danh Biểu Nhân Vật” của
họ trên các bia đá tưởng nhớ.
Nếu
các bức tường thành và Thiên Đàn Tế Trời của
Huế làm liên tưởng đến Bắc Kinh, Hoàng Thành,
các lăng tẩm của nó cũng gợi nhớ đến
các ngôi mộ nhà Minh Trung Hoa ở cuối con đường
có tượng đá đứng xếp hàng hai bên. Cho đến
gần đây, hoàng gia tại Trung Kỳ còn thực hiện
các truyền thống đã bị chấm dứt tại
Trung Hoa với sự sụp đổ của nhà Mãn Châu
năm 1912.
Một
phi công, bay trên Hiếu Lăng [? Tomb of Filial Piety] của Huế,
có thể nhìn thấy các bồn hoa kết thành hình chữ
THỌ - mang ý nghĩa Vĩnh Cửu (Eternity). Trên gò đất
gần bên, các màu cờ của Hội Địa Dư Quốc
Gia Hoa Kỳ (National Geographic Society) sẽ thích hợp. Màu
Xanh Của Trời, Màu Nâu Của Đất, và Màu Lục Của
Nước tượng trưng cho Ba Quyền Năng mà mọi
người Trung Kỳ đều cúi đầu vái lạy.
Trong Tháng
Ba, 1942, vua Bảo Đại cử hành buổi lễ ba
năm một lần (triennial) [?] cuối cùng lên vị Chúa
Tể Tối Cao. Tháng Ba năm 1951, một lần nữa
sẽ là thời điểm cho hành vi tôn quý nhất trong tín
ngưỡng An Nam nếu các lực lượng chính trị
không gây ra sự bãi bỏ nó, như ở Trung Hoa.
Cuộc Sống Trên Thuyền Tại Huế
Trên các thủy
lộ yên tĩnh bị đám cây cối làm nghẹt
đường của Huế, đời sống trên thuyền
xem ra thơ mộng. Trên các chiếc thuyền này, các
người đi thuyền với cẳng chân để
trần, đứng trong bóng che của chiếc mũ dùng
để chụp tắt ngọn nến, mặt hướng
về phía trước khi đẩy mái chèo. Hẳn phải
là một đời sống cực nhọc, nhưng khi chiếc
thuyền sơn dầu vàng lướt qua làn hơi ẩm
nóng hay bóng che lốm đốm ánh mặt trời, người
ta cảm thấy như thể có một đạo diễn
ẩn mình đang bài trí “màu sắc tại chỗ” cho vẻ
đẹp như tranh của nó.
Từ Quảng
Trị, cách vài dặm về phía tây bắc Huế, một
con đường chắn ngang xương sống của
rặng núi xanh lục nằm giữa Biển Đông và
Thung Lũng Sông Cửu Long, phân chia Trung Kỳ và Lào. Di
chuyên trên đó vào một ngày, Williams đã được gặp
tại Savannakhet, bởi một ban tiếp đón có màu sắc
vui tươi của các thiếu nữ, cầm các cành hoa
có mùi thơm dịu ngọt, và đang chờ để
trình diễn một cảnh tán tỉnh yêu thương làm
khoan khoái giới trẻ Lào (trang 485).
Ảnh 5: Các Chủ Tế
Mặc Áo Lụa, Nâng Các Đồ Cúng Lên Cao, Cử Hành Lễ
Thanh Minh Dành Cho Người Chết.
Lê Văn
Duyệt, một anh hùng Việt Nam một thế kỷ
trước đây, được thờ cúng tại
lăng và đền của ông gần Sàigòn, hôm 4 Tháng
Tư, 1950.
Ảnh 6: Các Thanh Niên
Thôn Quê Lào Tập Dượt Ban Ngày Cho Cuộc Ve Vãn Tỏ
Tình Đầu Năm, Một Màn Ngoạn Mục Diễn Ra
Vào Buổi Tối
Khi mặt
trăng hiện lên tại Savannakhet, người chụp ảnh
đã nghe các chàng trai và các cô gái trao đổi những lời
tán dương tình yêu bằng các câu thơ ứng khẩu.
Các thanh niên này đang khiêng một tháp lộng lẫy đến
khu phụ nữ.
Trong
khi các thiếu nữ quàng khăn mầu cầu vồng tỏ
bày sự tôn kính, năm tù trưởng người Lào trong
buổi lễ long trọng đã buộc một chuỗi sợi
chỉ quanh cổ tay ông như một biểu tượng
của thiện ý nhằm bảo đảm cho chuyến
bay an toàn về Âu Châu và một lần về nhà hạnh
phúc ở Hoa Thịnh Đốn.
Tại
Paris, ít ngày sau đó, có vẻ như dân chúng ở đó
cũng mê tín dị đoan như ở Lào. Nhận thấy
sợi dây chỉ đơn giản này quanh cổ tay của
ông Williams, một thiếu nữ Paris yêu cầu cô ta có thể
được sờ vào nó. Trong vài phút, hàng tá người
khác cũng yêu cầu được làm như thế. Một
người còn khao uống rượu sâm-banh.
Ngày đó
bà Williams tại Hoa Thịnh Đốn đã đọc ba
mẩu tin liên hệ nhau một cách khó hiểu: một, bức
thư từ Sàigòn nói rằng ông Williams có thể trở về
bằng chiếc tàu chạy bằng hơi nước; một,
bức điện tín loan báo ông đến Paris bằng máy
bay; một, đoạn tin trên báo cho hay chiếc thuyền
đáng lẽ ông sẽ đi đã mất tích như thế
nào ở ngoài khơi Socotra, với 69 người bị chết.
Mãi cho
đến khi ông trở về nhà, vòng chỉ sợi đeo
tay may mắn đã sờn, mang các lời cầu nguyện
của người Lào cho việc về quê may mắn, mới
được gỡ ra khỏi cổ tay của ông!
Khi một
người đi xe xuống hướng nam từ
Savannakhet tới Stungtreng, một âm thanh báo hiệu tăng dần
trong nhịp rống liên tục. Xuôi xuống hạ lưu
con sông, người ta nhìn thấy các đám mây đầy
sương treo trên bàu trời trong vắt. Qua âm thanh và cảnh
tượng, người ta biết rằng mình đã đụng
vào một vách ngăn đá trên đó dòng Cửu Long mãnh liệt
vấp phải và đập vào đó là những dòng nước
chảy xiết chết người và các vách đá sắc
nhọn khiến không có sự thủy hành nào có thể thực
hiện được.
Trước
khi các chiếc máy bay cắt giảm các chướng ngại
vật của trái đất, các tàu hơi nước
đã chiến đấu trên luồng ngược dòng qua
các khe núi của sông Dương Tử tại Trung Hoa.
Nhưng không có tàu nào chiến thắng được Thác
Nước ở Paphang, gần Khone, trên một con sông
vĩ đại khác này của Á Châu.
Một thế
kỷ trước đây, các chính khách đã nghĩ rằng
người ta có thể đi theo con sông Cửu Long đến
Trung Hoa. Nhưng Thác Paphang đã chặn đường
đi của Ernest M. L. Doudart de Lagrée và Francis Garnier. Khi Jean
Dupuis trong năm 1873 chỉ cho thấy rằng sông Hồng
là con đường dẫn đến Vân Nam, Bắc Kỳ
trở thành địa điểm hàng đầu trong cuộc
chạy đua đến đế quốc.
Các chiếc
thuyên đi sông bản xứ dài, giờ đây được
gắn động cơ, đã dành thắng trên nhiều
đoạn của con sông và chạy ngược dòng nghe
bình bịch cho đến Luang Prabang. Một số phà
cũng vượt qua các hàng rào cản của các con sông dọc
theo Con Đường Cái Quan cùng các con lộ nhỏ, chậm
hơn, dài 1,600 cây số, và băng ngang qua sông Cửu Long tại
nhiều địa điểm nay là chuyện bình thường.
Đêm
đổ xuống tại núi rừng nhiệt đới
có một tính chất hoài niệm. Ngọn đuốc thô
sơ được cầm bởi một người bản
xứ thân thiện, đứng trong khu rừng rậm hay gần
một con rắn bằng đá dựng đứng, gợi
lên một cảm giác về tình liên đới trong một
cõi ma thuật u huyền. Giờ đây, dọc theo các
đường mòn như thế, không phải lúc nào
cũng có ánh đèn của ngọn đuốc thân thiện,
bốc khói, hay sự chiếu sáng của các con đom
đóm, mà là tiếng nổ giòn, sắc của một khẩu
súng của kẻ bắn sẻ.
Ở gần
thác nước ầm ỹ, một con đường cắt
sang hướng đông chạy tới bờ biển tại
Bình Định. Một nhánh khác nối dài về phía nam
xuyên qua Kratie đến Sàigòn. Một nhánh rẽ trái ở
Kratie cũng đâm ra phía đông chạy tới bờ biển.
Lối
đi kể sau xuyên các các đồi cây hoang dại và các
cao nguyên cỏ mọc của rặng An Nam [rặng Trường
Sơn], nơi cư trú của nhiều sắc dân hỗn
chủng hơn của Đông Dương. Bởi ở
đây là các người Mọi sơ khai. Mọi, một
lần nữa, là một từ ngữ bao quát có nghĩa
đơn giản “mọi rợ, hoang dại”, và dưới
tên gọi này là các nhóm Radé, Jarai, Sedang, Davak (trang 475), Khasi, và
nhiều bộ tộc khác.
Không giống
như người dân vùng đồi núi miền bắc, các
người này thuộc tộc Indonesian. Cũng vậy,
không giống như các bộ tộc trang điểm vui
tươi đó, các người dân này chỉ ăn mặc
gần như không có y phục gì cả.
Trên các
đường mòn và các ngôi làng biệt lập, chúng tôi nhìn
thấy đàn ông chỉ đóng khố hình chữ G và quấn
khăn trên đầu. Phụ nữ của họ tự
tô điểm bằng chiếc váy đơn giản, chuỗi
hạt ở cổ, và các khoen bằng đồng thau hay sợi
đồng lủng lẳng từ các lỗ bấm tai chảy
xệ xuống. Một số người, với sự
say mê đồ trang sức lòe loẹt hơn, có mang các chiếc
vòng bằng đồng thau cuộn tròn từ cổ tay lên
tới khuỷu tay và các móng tay được sơn màu
đỏ tươi bằng mủ cây.
Nơi
đây nhà làm bằng tre và tranh, dựng trên các chiếc cọc.
Một số nhà dài hàng trăm bộ Anh (feet) và có vẻ giống
như các nhà theo từng dẫy, ngoại trừ chúng chỉ
có một lối ra vào duy nhất! Nhiều gia đình liên hệ
cùng sống dưới một mái nhà.
Hiển
hiện nhất ở bên trong, gần như không có đồ
đạc thiết bị, là các dãy bình rượu gạo
được xếp dựa vào vách. Giống như các
nhà bộ lạc khác, chúng không có ống thông hơi,
nhưng làn khói đen sau rốt thoát qua mái tranh có một lợi
điểm là phục vụ như loại thuốc đẩy
lui các con muỗi.
Trong số
các người Radé và Jarai, hai sắc dân có dân số đông
nhất và phát triển cao độ trong các bộ tộc Mọi
này, các quyền hạn của phụ nữ là điều
không có gì cần thắc mắc. Bởi ở đây chế
độ mẫu hệ thịnh hành, cả tài sản và
tên họ đều được truyền thừa qua
người mẹ.
Bởi
thường có nhiều con trai hơn con gái trong bộ lạc,
các cô dâu cũng ở vào vị thế tốt để mặc
cả.
Ảnh
7: Dòng Nam Khan Uốn Mình Xuyên Qua Các Ngọn Đồi
Hỗn Độn Tiến Tới Chỗ Hợp Nhất Với
sông Cửu Long tại Luang Prabang
Xứ Lào
sương mù, mơ mộng thoát khỏi các khía cạnh xấu
nhất của cuộc nội chiến huynh đệ
tương tàn của Việt Nam. Đây là cảnh mùa khô của
nó, khi các bãi cát nằm phơi mình và các người chèo thuyền
không gặp khó khăn để chống sào đi qua luồng
nước hẹp. Các cây dừa cao, nguồn cung cấp hạt
cau, mọc lên dọc bờ sông. Muốn có cái nhìn của họa
sĩ về Nam Khan, xem tranh vẽ nơi trang 480.
Ảnh 8: Lính Lê
Dương Gốc Nước Ngoài Của Pháp, Chải Chuốt
Trước Khi Tiến Vào Trận Mạc, Đang Sử Dụng
Một Dòng Nước Trên Đồi Làm Chậu Giặt Quần
Áo
Các người
này chiến đấu với một kẻ địch lẩn
trốn, hoàn toàn vô hình, các kẻ khủng bố Đỏ
của ông Hồ Chí Minh, các kẻ thường tấn công
vào ban đêm và sau đó biến dạng vào vùng đồi
núi.
Các Quy Luật Nghiêm Ngặt Của Việc Làm
Mai
Bước
đầu tiên của bất kỳ cuộc làm mai nào
cũng phải bắt đầu với cha mẹ của
chàng thanh niên. Khi tiếp xúc lần đầu, họ mang
quà biếu bằng trầu, một cử chỉ được
biết rộng rãi như là “cuộc thăm viếng với
món quà nhỏ của lá trầu đến chiếc cổng
vườn nhỏ”. Nếu được đón tiếp
thuận lợi bởi cha mẹ cô gái, khi đó món quà thứ
nhì và cầu kỳ hơn được trao tặng.
Thường nó gồm cả gà và gạo cũng như trầu.
Nếu mọi
việc tiến triển êm xuôi, chàng thanh niên có thể tự
nhận thấy minh kết hợp sự tán tỉnh với
công việc làm trong nhà cha mẹ cô dâu để trả cho
phí tổn lấy cô gái.
Tại một
số đảo ở Thái Bình Dương, cặp tình nhân
đốt cháy “các vết sẹo tình yêu” trên cánh tay của
nhau; ở đây các người yêu nhau trong bộ lạc rạch
mặt nhau như một dấu ấn hay chữ ký của
hôn khế!
Mặc dù
trong bản chất là các người theo nghiệp nhà nông,
nhiều người đàn ông Mọi là các nhà săn bắn
và lùng bắt tuyệt hảo cho cuộc săn bắn lớn,
diễn ra rất nhiều trong vùng. Đặc biệt
người Mnong, sống ở phía tây Ban Mê Thuột, nổi
tiếng là các kẻ săn voi giỏi. Bắt và thuần
hóa các con voi con mang lại một nguồn lợi tức
quan trọng.
Đà Lạt,
trạm nghỉ mát vùng núi đồi thú vị cho một
Sàigòn phức tạp, nằm trên các ngọn núi này, nơi mà
người Radé gần như trần truồng di chuyển
trên các lối đi, đeo theo cung tên và các giỏ sản vật.
Hoàng Đế Bảo Đại sống phần lớn thời
giờ của ông ở Đà Lạt này hơn là ở
Sàigòn, thủ đô. Ông và các viên chức khác đi lại bằng
máy bay.
Một
vài tháng trước đây một trong chúng tôi có được
hân hạnh đi bằng máy bay, bởi một đoàn xe
cơ giới di chuyển từ Sàigòn lên trạm nghi trên núi
bị phục kích và hơn nửa số xe bị phá hủy.
Sàigòn vui vẻ
mang hương vị Paris của vài năm trước
đây giờ không hoàn toàn tươi tắn như thế.
Mặc dù các quả lựu đạn thỉnh thoảng
được ném vào các quán cà phê mở cửa phía trước
và các rạp hát, nó vẫn duy trì được một mức
độ yên lặng khá tốt (trang 462).
Mùa xuân vừa
qua, khi ông Moore [một trong hai tác giả của bài viết
này, chú của người dịch] ở đó, lệnh giới
nghiêm ban đêm nghiêm ngặt đã được gỡ bỏ.
Các quán rượu và sòng bạc tại phố Tàu kề cận
ở Chợ Lớn một lần nữa lại lung linh với
ánh lụa mượt mà, và tiếng kêu sôi nổi của giọng
nói vượt lên trên tiếng rao đơn điệu buồn
tẻ của hồ lì [sòng bạc].
Một buổi
tối, mặc dù đạn súng cối vẫn nổ tại
các đầm lầy bên sông ven thành phố, ông đến
tham dự một buổi dạ hội tại Hội Quán
Đua Ngựa (Cercle Hippique), nơi mà các phụ nữ Pháp
mặc áo choàng bằng vải nhẹ cùng các kẻ tháp tùng
mặc đồ trắng tinh, theo dõi các sĩ quan kỵ
binh và các người cỡi ngựa khác đem lại một
sự phô diễn sinh động của màn phóng qua rào cản.
Ngày kế
tiếp, có buổi Lễ Thanh Minh Dành Cho Người Chết
(Feast of the Đea), được tổ chức bởi các
viên chức Việt Nam tại đền thờ và lăng
ông Lê Văn Duyệt, vị tướng lĩnh nổi tiếng
dưới triều Hoàng Đế Gia Long là kẻ đã giữ
hốt ngọc của An Nam một thế kỷ trước
đây. Lễ vật gồm có một con bò, một con dê,
và một con heo, cùng các khay chất đầy cơm và trái
cây được đặt trước bàn thờ (trang
484).
Theo nhịp
bài ai điếu dài được chấm câu bởi trống,
sáo, và đàn dây thanh cảnh, các viên chức ngôi đền
trong áo dài màu xanh và tím, đi giầy bằng nỉ có đầu
mũi giầy cong lên, và mũ vuông, đã thắp nến và
hương, và cúi đầu vái lạy khi dâng cúng trà và
rượu.
Di chuyển
theo hướng tây bắc từ Sàigòn đến Nam Vang, và
khuôn mặt của Đông Dương một lần nữa
lại thay đổi. Trên các đường lộ và tại
những ngôi làng tre được đánh dấu bằng
các ngọn tháp chùa mảnh mai, bạn nhìn thấy các người
đàn ông và đàn bà có nước da màu nâu đậm, tóc của
họ được cắt ngắn sát chân tóc, và cả
hai phái đều mặc thay cho quần tấm sampot,
một mảnh vải quấn quanh thân thể và buộc
túm phía trên như chiếc tã ở giữa hai chân.
Trong họ
cũng vậy, có nhiều tu sĩ Phật Giáo cạo đầu
trọc mặc áo choàng giống như áo dài La Mã xa xưa
màu vàng. Đây là những người Căm Bốt, có tổ
tiên gốc Khmers từng có thời thống trị phần
lớn vùng đông nam của Á Châu (trang 471).
Ngày nay Quốc
Vương Norodom Sihanouk 29 tuổi trị vì trên 3,500,000
người dân hiếu khách, thân thiện này. Cung điện
của ông nằm ở trung tâm thành phố ngăn nắp
Nam Vang, bởi một sự éo le lạ lùng của lịch
sử, có vẻ có cùng kiểu mẫu của thành phố tại
Bangkok, Thái Lan.
Nhiều
thế kỷ trước đây, người Khmers kiểm
soát phần lớn Thái Lan, hay Xiêm La, nhưng vùng đó,
cũng như kinh đô Khmer nổi tiếng tại Angkor,
đã bị rơi vào tay người Thái, các kẻ đã
di cư từ miền bắc xuống.
Các nhà vua
chiến thắng của Thái đã tiếp nhận nhiều
tập quán triều đình Khmer, bởi đối với
họ, nghi thức Khmer tượng trưng cho văn hóa.
Người Căm Bốt, kế đó, đã tiếp nhận
một số điều gì đó mang tính chất Xiêm La khi
xứ sở của họ tự tái khẳng định.
Cả hai nước chia sẻ chung ảnh hưởng của
nam tông Phật Giáo, Hinayana, tức phái Tiểu Thừa để
thay thế cho sự thờ phượng trước
đây của họ đối với các vị thần của
Ấn Độ Giáo.
Trung tâm của
Căm Bốt là một đồng bằng trải rộng,
trơ trụi và bị thiêu đốt trong nửa phần
sau của mùa khô kéo dài sáu tháng, nhưng lại xanh rì với
các cánh đồng lúa khi cơn mưa hàng ngày đổ xuống
trong tháng Năm hay tháng Sáu. Tại Nam Vang, người Việt
Nam và người Trung Hoa là các chủ tiệm; người
Căm Bốt là các viên chức nhà nước hay dân làm ruộng.
Các Bức Chạm Khắc Giống Như Tấm
Rèm
Thách Đố Rừng Rú
Cả hai
chúng tôi đều có mặt tại Nam Vang vào dịp Năm
Mới trong tháng Tư, khi kinh đô mang phong thái lễ hội.
Nhưng cách nào đó, các cuộc nhảy múa cổ điển
và hành hương đên chùa ngày hội có lẽ sẽ hay
nhất khi được nhìn với bối cảnh của
khu Angkor lịch sử, với các tòa tháp bằng đá và
các hình chạm khắc trông giống như tấm rèm viền
hãy còn thách đố sự công kích của rừng núi, cuộc
chiến đấu của chúng được trợ lực
một cách may mắn bởi các công tác khai quang và sự phục
hồi khéo léo của người Pháp.
Ở
đó, vào ban ngày, chúng tôi đã nhìn thấy các người
đi hành hương thắp hương tại các sân
đền âm vang và vuốt ve các bức tượng đá
khắc nổi đến độ làm cho đá cẩm thạch
trơn nhẵn và bóng loáng. Ở đó, khi ban đêm nhiệt
đới mang lại an bình cho khu rừng, chúng tôi tận
hưởng bằng mắt một quang cảnh ngọan mục,
quá mờ để chụp hinh, nhưng là cảnh mà
Despujols đã chuyển lên khung vẽ.
Băng
ngang dãy hào đầy sen, các ánh lửa vàng lập lòe xác
định một bóng tôi trong đó năm ngọn tháp cao của
Angkor Wat có vẻ ma quái nhiều hơn là các vì sao.
Bước
trên con đê gồ ghề, một hình dáng to lớn, ngất
ngưởng nặng nề đi qua. Một trong những
con voi của ngôi đền sắp sửa bổ túc thân xác
đồ sộ không màu sắc của nó cho vẻ lộng
lẫy của trang phục bằng vàng, phản chiếu
tia sáng của ngọn đuốc màu vàng dưới nền
trời mượt nhung.
Đàng
sau một đoàn vũ công, trên các khối đá nhiều tầng
cao như núi, có khắc hình các vũ công Apsarases linh hoạt
với các điệu bộ giờ đây được
đối chiếu bằng chân và tay sống động.
Các thiếu nữ nhảy múa mặt tô phấn, nói huyên
thuyên trong sự hỗn độn đàng sau sân khấu vài
giây phút trước đây, thủ diễn các tư thế
mềm mại như thể các nhà điêu khắc vô danh
đã tạo hình trên phiến đá vô hình trước khi
Marco Polo nhìn thấy các công trình kỳ diệu khác tại Á
Châu, nhưng lại không nhìn thấy các tác phẩm này.
Ảnh 9: Ông Hoàng Giao
Chiến Với Quỷ Sứ Trong Cuộc Múa Song Đấu
Bên Cạnh Các Bức Tường Nhiều Tầng Của
Angkor
Đoàn kịch
của Nam Vang lập lại các tư thế khắc chết
vào đá bởi các nhà điêu khắc của Angkor một
nghìn năm trước đây (các trang 467, 469). Ở
đây, Ông Hoàng Rama (bên trái) của thần thoại Ấn
Độ đánh nhau với Quỷ Ravana có nhiều cái
đầu để dành lại người vợ bị
bắt trộm. Các người kể chuyện, các nhạc
công và người hành hương choán cả hậu trường.
Các Thiếu Nữ Nhảy Múa Của Đền
Angkor
Tại
Sabrata hay Syracuse [thành phố thuộc đảo Sicily, miền
tây nam nước Ý, chú của người dịch], các diễn
viên sống động mang cuộc sinh hoạt mới, ngắn
ngủi đến cho khung sườn bị thời gian
làm bạc phếch của các rạp hát đổ nát.
Nhưng tại Angkor, trong bóng đêm vùng nhiệt đới,
cả khối đá đồ sộ và các nữ vũ công
sống động đều có vẻ siêu trần (các
trang 467, 469, 471, 488).
So sánh với
các con voi trận được khắc chìm, các con voi của
chúng ta xem ra không có sinh khí, bởi chúng không chuyên chở các
ông hoàng ra trận. Và các vũ công sinh động, mặc
các chiếc áo thêu cứng ngắc ngày nay, xem ra ít sức sống
hơn các nàng vũ công Apsarases của ngôi đền với
các bầu vú tròn trịa và các nụ cười bí hiểm
mà các nhà điêu khắc đã tán tỉnh từ phiến
đá cứng cỏi. Song ở đây gần như một
lần nữa người Khmers đã thức dậy từ
đám bụi của nhiều thế kỷ.
Thành phố
có tường thành bao quanh Angkor Thom, được gọi
tên trong thời đại của nó là Yaҫodharapura,
đã có lúc chứa đến một triệu người.
Người dân đã ra đi, và nhà cửa của họ
cũng đã biến mất. Nhưng ở đây vẫn
còn có năm cửa vào thành phố, ngôi đên Bayon trung tâm to
lớn, và các tu viện bên ngoài với các ngọn tháp trên
đó bốn khuôn mặt của Lokesvara (Avalokitesvara: Phật
Bà Quan Âm) mỉm cười, cũng tượng trưng
cho chân dung tạc theo mẫu của Nhà Vua Jayavarman VII, vị
vua xây dựng-chiến đấu vĩ đại vào cuối
những năm 1100.
Các nhà vua
khác trước ông cũng hiện diện rải rác trong
nước với các đền thờ được chạm
khắc phong phú, ngay dù trong sự kìm kẹp màu xanh của rừng,
làm nổi bật sự vinh quang mà người Khmers đã
vươn lên trước khi Âu Châu phóng ra cuộc Thánh Chiến
của nó hay Gengis Khan lên nắm quyền hành.
Xứ Lào Với Hai Kinh Đô
Đi về
hướng bắc, băng ngang qua phần phình lớn phía
đông Thái Lan, một phần được bọc quanh bởi
sông Cửu Long, là Vạn Tượng (Vientiane), thủ
đô xứ Lào. Chính quyền ở Lào là một vấn
đề, bởi các bộ trưởng hội họp tại
Vạn Tượng, trong khi Nhà Vua và triều đình của
ông cư trú tại Luang Prabang, ngược dòng sông lên trên xa
hơn.
Bởi
các bộ trưởng đi từ Vạn Tượng
đến Luang Prabang để hội kiến với Nhà
Vua cần đến khoảng 12 ngày bằng một trong
các thuyền độc mộc có gắn động cơ
chạy trên con sông lộng gió. Tuy nhiên, trong mùa khô, người
ta có thể xuyên qua quãng đường bằng đường
bộ hay bay đến đó trong một tiếng đồng
hồ -- nếu sương mù không che khuất phi đạo
bao quanh đồi.
Thật
may mắn khi chúng tôi đi, các ngọn đồi được
nhìn thấy rõ. Một cách chuyên nghiệp, phi công bay vòng
quanh ngọn đồi có ngôi chùa nhọn trên đỉnh tại
trung tâm thành phố và và lướt xuống bãi đáp ngắn.
Cả Vạn
Tượng và Luang Prabang là các thành phố đền chùa
yên tĩnh, và dân chúng có vẻ vui hưởng đời sống
nên thơ, không mong ước gì hơn ngoài những điều
được cung cấp bởi Thiên Nhiên phong phú. Một
cách chắc chắn, nếu các nụ cười và lòng hiếu
khách là bằng cứ xác thực, khi đó người Lào
là các kẻ hạnh phúc.
Cản trở
giao thông lớn nhất mà Luang Prabang gặp phải là khi
các con voi của hoàng cung đi bộ ra phía sông để
được tắm rửa hàng ngày hay nghỉ ngơi
trước một ngôi chùa để được cho
ăn các bó cỏ và nghe các câu thần chú thì thầm vào tai của
chúng.
Đã sống
một số năm tại Thái Lan, ông Moore cảm thấy
giống như ở nhà, bởi các ngôi chùa Phật Giáo, các
điệu múa dân gian, y phục, và ngôn ngữ của các
người dân này gần như giống hệt với các
điều như thế của miền bắc Xiêm La.
Đôi khi, trong các thời đại trước đây,
Lào có gửi các cây nhỏ làm bằng vàng và bạc làm cống
phẩm lên triều đình ở Bangkok.
Tại
các cụm núi phía bắc Luang Prabang có nhiều dân cư ngụ
trên đồi là những kẻ đã di cư đến
đó, để tìm sự bình an. Nhưng ngày nay, xứ Lào
đang theo dõi một cách âu lo biên giới phía bắc này chống
lại sự xâm lăng ít hòa dịu hơn./-
---
*Xem trong Tạp
Chí National Geographic Magazine các bài: “By Motor Trail Across French
Indo-China” của Maynard Owen Williams, số Tháng Mười
1935; “Strife-torn Indo-china”, số Tháng Mười 1950, và “Along
the Old Mandarin Road of Indo-China”, số Tháng Tám, 1931, cả hai
được viết bởi tác giả W. Robert Moore. Các bản
dịch sẽ được đăng tải nơi
đây.
** Xem bản
đồ sơ lược trên trang 501, National Geographic
Magazine, số Tháng Muười 1950, và bản đồ
Á Châu và Các Khu Vực Kề Cận (Map of Asia and Adjacent Areas)
của National Geographic Society, được ấn hành làm
phụ bản cho số báo Tháng Ba, 1951.
-----
Nguồn: W. Robert
Moore và Maynard Owen Williams, Portrait of Indochina, with 30
Illustrations, 21 Paintings of Jean Despujols, The National Geographic
Magazine, April 1951, Washington D. C., các trang 461-490.
Ngô
Bắc
dịch
8/2/2010
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét