

Tela
Zasloff
Ngô
Bắc dịch
Tác
giả Tela Zasloff đã đi cùng với người chồng,
ông Joe, đến Sàigòn trong năm 1964, ở tuổi hai
mươi lăm, để thực hiện một cuộc
nghiên cứu chính trị về cộng sản Việt Nam.
Trong Tháng Hai 1965, hai tháng sau khi vợ chồng Zasloff quay trở
lại Hoa Kỳ, Tổng Thống Johnson đã gửi toán
viễn chinh đầu tiên trong các lực lượng chiến
đấu Hoa Kỳ sang Việt Nam.
***
Nhà
số 176 Đường Pasteur
Ngôi
nhà của chúng tôi đã từng có vẻ thanh nhã theo kiểu
phố hàng tỉnh của Pháp, có các bao lơn và các hàng hiên
và các dây leo với hoa màu hồng nở rộ và khu dành cho
gia nhân ở phía sau. Nhưng như tất cả mọi
căn nhà trên cùng đường phố, ngôi nhà của
chúng tôi giờ đây được bao quanh bởi một
bức tường đúc cao với dây kẽm gai giăng
trên cùng.
Trong
mùa hè 1964, khi chúng tôi đến Sàigòn, ngôi nhà của chúng tôi
thuộc quân đội Mỹ, có các nhân viên Việt Nam vui vẻ
giúp chúng tôi dọn vào. Một người làm vườn
nhỏ con, lưng khòm, xuất hiện gần như mọi
ngày, khuôn mặt ông ta được che khuất bởi một
chiếc nón lá. Ông ta không bao giờ cất tiếng nói,
nhưng gật đầu nhẹ theo sự chỉ dẫn
của chúng tôi và đào sới không ngừng mảnh vườn
phía trước nhỏ bé của chúng tôi, có vẻ như
để nhổ cỏ dại và chăm sóc cho giải cỏ
chật hẹp. Chị Hai lau chùi bằng nước các sàn
nhà gạch đỏ hai lần mỗi ngày, hay đúng
hơn, Chị Ba là người lau sàn nhà, làm việc dưới
sự giám thị nóng nảy và đôi khi hằn học của
Chị Hai. Nhà bếp thuộc về Anh Ba, người đứng
nấu, đi mua đồ, và hướng dẫn làm bữa
ăn, và giám sát công việc của Chị Hai – với sự
bực dọc liên tục.
Cầu
thang lên từng thứ nhì có hai thanh vịn tay bằng gỗ
anh đào dài, được đánh bóng, thật êm ái và dễ
chịu khi sờ vào. Buổi tối đầu tiên đó,
chúng tôi đã thử ra ngồi trên các bao lơn phía trước,
nhưng làn khói xanh từ các chiếc xe hơi và các chiếc
xe gắn máy xả khói không đúng lúc đã xua đuổi
chúng tôi vào trong nhà. Phòng ngủ và phòng tắm của chúng
tôi ở phía đàng sau ngôi nhà. Chúng tôi mở các cánh cửa
lá sách bằng gỗ đen của cửa sổ, nhìn khu ra
nhà ở gia nhân bên ngoài giăng dây treo quần áo của
chúng tôi, và vượt quá bức tường cao và đỉnh
mái nhà của hàng xóm không quen biết của chúng tôi.
***
Động
Vật
Tôi
không nhớ có nhìn thấy bất kỳ con chó nào rảo
bước. Các láng giềng của chúng tôi được
bảo vệ bởi các con chó bị xích lại, dấu
mình, và phán đoán từ tiếng sủa dài hơi, phải
là giống chó Shepherds của Đức. Một hàng xóm người
Việt Nam mà tôi sang thăm có ba con chó cảnh màu trắng mắc
phải bệnh ghẻ không nhẹ. Chị Hai và Chị Ba
nhận xét rằng sự mất dạng của nhiều
con chó nhỏ tại một ngôi nhà phía dưới phố
là bởi vì chúng đã bị làm thịt cho bữa ăn tối.
Tôi
không nhớ gì về các con mèo, mặc dù kích thước các
con chuột bị bắt định kỳ tại các ống
thoát nước của chúng tôi bởi toán bảo trì quân
đội khiến ta nghĩ rằng một số lượng
mèo phục vụ tốt cho việc ăn uống của
thành phố. Các cây cối và hoa nở thường xuyên và
tôi ưa thích để tưởng tượng rằng
tôi đã nghe được tiếng chim lạ lùng bên ngoài
các cửa sổ của chúng tôi, nhưng tôi không thể nhớ
có lần nào nhìn thấy được dù chỉ một con.
Các con ngựa và các con bò với các bộ xương sườn
gầy trơ xương kéo củi và sản phẩm ra chợ,
nơi các chú khỉ làm trò than khóc đôi khi có thể được
nhìn thấy trên vai các chủ nhân của chúng, cố gắng
để thu hút trẻ em. Có lần một người
bán hàng đang bán một con mèo rừng mình có vằn đẹp
đẽ với vòng đeo cổ bằng đá giả kim
cương; nó hiển nhiên bị bệnh và vật vờ.
Khi tôi nhận xét “Nó bị bệnh” [Il est malade,
tiếng Pháp trong nguyên bản, chú của người dịch],
người bán trừng mắt nhìn tôi và lắc sợi dây
buộc để đánh thức con vật.
Các
côn trùng có mặt khắp nơi, và được lôi cuốn
tới với người Hoa Kỳ là các kẻ đã cự
tuyệt việc dùng màn lưới chống muỗi thời
thực dân xa xưa và đòi hỏi mọi cửa sổ
phải được đóng lưới che. Theo một
ngạn ngữ cổ xưa, trong năm đầu tiên của
bạn ở Sàigòn, bạn đòi một ly nước khác
khi một con ruồi được tìm thấy trong ly
nước uống của mình. Trong năm thứ nhì, bạn
sẽ vớt con ruồi ra trước khi uống. Đến
năm thư ba, bạn uống nó, con ruồi và mọi thứ,
và nhận thấy vị của nó cũng ngon miệng. Phần
lớn các phụ nữ bận rộn trong các bữa tiệc
ngoài sân cỏ với việc đập muỗi nơi chân
của họ. Các bè bạn tốt nhất của người
bị đốt là các con tắc kè: các con thằn lằn
màu nâu rám nắng dài từ một, hai phân Anh (inch) cho tới
hơn một bộ Anh (foot), chạy trên các bức tường
và trần nhà và mau chóng giảm trừ số lượng
côn trùng với các chiếc lưỡi phóng ra như phi tiêu.
Tại
Đà Lạt, một thị trần miền núi cách Sàigòn một
đường bay ngắn, chủ nhân lữ quán người
Pháp mà chúng tôi lưu trú lấy làm khó hiểu bởi các chiếc
quần ngắn, tất dài, và đôi giầy đánh quần
vợt của chúng tôi, và bởi lời yêu ca6ù của chúng
tôi muốn có ngựa để cưỡi trên đường
mòn. Với sự nài nỉ của chúng tôi, ông ta đã gửi
đến chúng tôi một người chăn nuôi là kẻ
đã cườì chúng tôi nhưng vẫn nhận tiền và
giúp chúng tôi leo lên hai con ngựa nhỏ màu xám, có các lưng
võng xuống, đã chạy một cách miễn cưỡng
lên xuống một vài ngọn đồi trơ trụi, đã
chỉ cất bước bởi vì chủ nhân của chúng
chạy đàng sau chúng với một chiếc gậy. Một
đám nhỏ dân quê tụ tập đứng ngắm nhìn
và cười khúc khích. Họ tán thưởng tôi, chủ
nhân tái xác nhận với chúng tôi, về sự giữ
thăng bằng của tôi khi cuộc cưỡi ngựa bị
kết thúc một cách đột ngột với một đường
nét biếm họa khi con ngựa đang rên rỉ của chồng
tôi khuỵu xuống như một con lạc đà và từ
chối không chịu đi nữa. (Cùng ngày đó, tại
Sàigòn, Tướng Lâm Văn Phát và Tướng Dương
Văn Đức cầm đầu một cuộc đảo
chính chống lại Chính Phủ của Tướng [Nguyễn]
Khánh. Ngày sau đó, dưới áp lực của Hoa Kỳ
và lời đe dọa bỏ bom của Thiếu Tướng
Không Quân Nguyễn Cao Kỳ, các viên tướng này đã
thoái lui).
***
Các
Kẻ Ăn Mày
Tôi
đã không chuẩn bị để gặp mặt các kẻ
ăn xin hay cho phản ứng của tôi đối với
họ. Phần lớn trong đó là các trẻ em, bị què
chân, cụt tay hay bệnh hoạn. Các kẻ khác cậy nhờ
đến một giọng van nài có tập luyện. Tất
cả đều bặm trợn một cách đáng ghét.
Đối với một người Mỹ mới đến,
thật không thể nào rảo bước dọc một số
lối đi bộ nào đó.
Có
một đứa con trai chín tuổi cụt chân tự
đẩy mình đi trên một tấm ván trượt với
tốc độ mau lẹ giữa khách sạn Hotel
Continental, nơi em nhỏ hoạt động giữa các
chiếc bàn ở hàng hiên, và Khách Sạn Caravelle, nơi em ấy
len lỏi giữa các ký giả đang thu xếp các vé máy
bay tại văn phòng du lịch ở tầng trệt. Tôi
thông thường né tránh em này. Một buổi trưa tôi
đi đến ngôi chợ trung tâm với Chị Hai. Tôi
chưa bao giờ tìm thấy chợ búa là một kinh nghiệm
thích thú; nó luôn luôn nóng bức và đông đảo, đầy
cá và rau trái hư thối, và người ta phải mặc
cả liên tục. Một bé gái rách rưới độ
mườì tuổi nắm lấy cánh tay tôi và xòe bàn tay
đã có sẵn ít đồng trong đó được cho
bởi các kẻ khác. Tôi cầm lấy một đồng
và cám ơn em bé và giả vờ đút tiền vào túi của
mình. Em bé ngơ ngẩn cả người. Tôi cảm thấy
tôi đã thắng một keo. Trên cùng đường phố,
một đứa bé trai trông khỏe mạnh đi theo tôi
qua hai dẫy phố để xin tiền với lời
rên rỉ thấp giọng. Tôi xé lớp giấy kính bọc
ngoài một gói kẹo cao su và đặt miếng giấy
nhầu nát vào bàn tay xòe ra của cậu bé. Trong vài giây
đồng hồ, cậu bé trừng mắt nhìn nó, sau
đó nhìn tôi với ánh mắt tinh anh và phá lên cười.
Cậu bé lật qua lật lại tờ giấy nhiều
lần trong sự kinh ngạc giả vờ và ấn tờ
giấy lên mặt mình với các lời cám ơn ranh mãnh.
Tôi đã cười lên với cậu bé.
Tôi
giải thích về hành vi của mình ra sao? Tôi nhớ lại
một nhu cầu trốn tránh việc làm hạ phẩm giá
mà tôi đã bị mời tham gia. Có lẽ đó là lý do tại
sao tôi lại muốn cườì lên một cách mỉa mia với
các đứa trẻ này. Cậu bé con với mảnh giấy
bóng kính xem ra đã chia sẻ cảm giác của tôi trong một
thời khắc ngắn ngủi khi cậu bé biễu diễn
hành động cám ơn giả dối. Tôi đã nhận
thấy cùng sự mỉa mai nhẹ nhõm hai mưoi bốn
năm sau này khi ở tại Thành Phố New York. Tôi cảm
thấy chiếc xách tay nhẹ đi và quay lưng lại,
bắt gặp một người đàn ông giơ cao chiếc
ví của tôi nơi góc phố, và tôi đã mỉm cườì
và đưa bàn tay mình ra. Ông ta lịch sự trả lại
chiếc ví và nói: ‘Ồ, tôi xin lôi’. “Việc đó không sao cả”,
tôi đã trả lời, và chúng tôi lặng lẽ chia tay, giống
như các kẻ quen sơ trao đổi các nhận xét về
thời tiết.
Tại
Sàigòn, tôi lấy làm tức giận về trò lường gạt
thay cho sự khốn khổ thực sự và nổi khùng về
cảm giác rằng tôi bị quy trách cá nhân. Nhưng một
giọng nói khác thì thầm với tôi mọi ngày khi tôi rảo
bước trên các đường phố đó rằng tôi
tham gia một phần trong việc tạo ra các con người
đáng thương này.
***
Buổi
Hòa Nhạc
Không
lâu sau khi dọn vào ngôi nhà của chúng tôi, tôi đã đi
thuê một chiếc dương cầm. Hẳn phải vì
bàu khí quyển quá nóng bức trong cuộc sống của
chúng tôi tại Sàigòn đã tạo ra cơn khát khao bất chợt
cho việc chơi nhạc cổ điển. Hàng ngày tôi
chơi nhạc trong nhiều tiếng đồng hồ vào
lúc trời mát – các phần mở đầu và các tẩu
khúc (fugues) nồng nhiệt của Bach, các bài tập nhạc
[études, tiếng Pháp trong nguyên bản, chú của người
dịch] của Chopin, một bản hợp tấu (concerto)
của Mozart luôn luôn trở thành khích động nhất ở
các đoạn chuyển âm điệu (modulations) khúc mắc.
Trước
khi thuê chiếc đàn dương cầm, tôi đã đi
mượn một chiếc. Một ngày sau khi Quốc Hội
[Mỹ] thông qua nghị quyết Vịnh Bắc Việt và
Hợp Chúng Quốc bắt đầu bỏ bom các căn cứ
của Bắc Việt, tôi đã gặp một phụ nữ
Việt Nam trẻ tuổi sống gần bên tại một
tòa nhà to lớn chia thành nhiều gian do gia đình bà ta làm chủ.
Bà ta được huấn luyện tại một nhạc
viện ở Paris và đồng ý để cho tôi chơi
trên hai chiếc đại dương cầm hợp tấu
giống nhau của bà ta, Yamahas, đặt đâu lưng
vào nhau trong một căn phòng khoảng khoát. Có một bức
ảnh của Mary Baker Eddy treo trên tường. Sàn nhà lát gạch
mở ra một bao lơn bên trên một sân vườn lúc
nào cũng đầy đồ giặt cùng các chị người
làm và trẻ con huyên náo, và các chiếc lồng có các con chim nhỏ
bé hót vang.
Vị
nữ chủ nhân của tôi luôn luôn ăn mặc giống
như một phiên bản trong phim về một sinh viên ở
Sorbonne, với áo len dài tay cổ lọ (turtle-neck) màu xám và
quần mầu đậm, mái tóc dài của bà, không để
theo một kiểu đặc biệt nào, xỏa xuống
ngang một khuôn mặt buồn bã. Bà ta nói trong các lúc buột
miệng ngắn bằng tiếng Anh hay tiếng Pháp, và
chúng tôi chưa bao giờ có thể thực hiện được
một cuộc đàm thoại kéo dài. Một hôm, bà ta có nói
rằng bà ấy đà từng chơi một bản hợp
tấu dương cầm của Tchaikovsky trong tám tiếng
đồng hồ liên tiếp để làm nhạc nền
cho một cuốn phim. Một dịp khác, bà ta chỉ lên bức
hình của Eddy treo trên tường và phát biểu một
cách đơn giản, vu vơ, rằng bà ta là một nhà
khoa học về Cơ Đốc Giáo (Christian Scientist).
Lần
thứ nhì khi đến căn phòng của bà ta, bà ấy mời
tôi tham gia một buổi độc tấu (recital) từ
thiện được bảo trợ bởi Các Bà Áo Xám
(Grey Ladies), một nhóm của các bà vợ các sĩ quan cao cấp
Việt Nam ở Sàigòn có mục đích làm các điều
thiện giúp các nạn nhân chiến tranh. Vị nữ chủ
nhân của tôi cần sự phụ họa dương cầm
cho phần trình diễn của bà trong bản Hòa Tấu
Dương Cầm cung A Trưởng của Mozart và cũng
là một người độc tấu để chia sẻ
chương trình cùng bà ta: tôi được mời để
trình bày hai hay ba phần. Tôi đã chọn bài tập
Chromantic Étude của Chopin, một đoạn mở đầu
và tẩu khúc của Bach, và một tổ khúc (suite) hài
hước của Roy Harris. Người bạn hợp tấu
của tôi sẽ bổ túc tấu khúc của Mozart bằng
các tác phẩm của các nhạc sĩ Debussy, Liszt và Fauré.
Tôi
đã tập dượt với sự nhiệt thành trong ba
tháng kế tiếp – tại nhà người bạn hợp
tấu của tôi và sau này, tại một nhạc viện
nhỏ gần Nhà Thờ Sàigòn. Tôi thả mình thư giãn, giả
định rằng khối khán thính giả sẽ không phê
bình chỉ trích. Người bạn hợp tấu của
tôi xuất hiện ít thường xuyên hơn và thường
bỏ không đến dự các buổi tập dượt
của chúng tôi, tôi không bao giờ được biết là
vì có sự căng thẳng hay vì sự lãnh đạm.
Các
lời phê bình với mức độ nghiệm trong khác nhau
thỉnh thoảng lọt đến tai chúng tôi. Người
chồng của người bạn hợp tấu của
tôi, một kẻ thuộc binh chủng hải quân của
nam Việt Nam, bình luận một cách mơ hồ trong cung
cách quý phái của ông. Cha của bà ta, một người vừa
mới từ chối lời mời trở thành một bộ
trưởng trong chính phủ yểu tử của ông Phan
Khắc Sửu, cúi đầu chào và mỉm cươi một
cách lịch sự. Một người Tiệp Khắc mù
một nửa đến nghe chúng tôi và khuyến cáo một
cách chua chát rằng chúng tôi cần tập dượt ít nhất
hai muơi lần nữa. Ông ta sẽ viết bài kiểm
điểm về buổi hòa nhạc cho tờ nhật báo
bằng tiếng Pháp ở địa phương. Hai ngày trước
buổi trình diễn, một người đàn ông nhỏ
bé trong bộ y phục Pháp và đôi giầy bóng loáng, có nói rằng
phần biểu diễn nhạc Mozart của chúng tôi thì “không
tồi” [pas mal, tiếng Pháp trong nguyên bản, chú của
người dịch] nhưng nó chỉ có thể được
trình diễn bởi đàn ông.
Buổi
độc tâu đã bị bãi bỏ nhiều lần, bề
ngoài là vì có các cuộc biểu tình trên đường phố,
hay xác thực hơn, bởi sự lo ngại của bà chủ
tịch rằng bà ta không thể bán cho đủ số vé.
Bất
kể sự bất trắc trong các giai đoạn hoạch
định, buổi trình diễn đã diễn ra một
cách êm thắm. Khoảng 300 người đã tham dự --
Việt Nam, Hoa Kỳ, và người Pháp, kể cả nhiều
trẻ em. Họ đã hoan hô vang dội, và một số người
có nói rằng họ lấy làm xúc động khi nhìn một
sự hợp tác Việt-Mỹ như thế. Bà
Westmoreland, vợ của viên tư lệnh các lực lượng
Hoa Kỳ tại Việt Nam, ngồi ở hàng đầu.
Huấn luyện viên cưỡi ngựa cho tôi, một
đại úy trong Lục Quân Hoa Kỳ, ngồi lặng lẽ
phía sau, và Chị Hai đi bộ đến trễ cùng các
con của chị, mặc áo lụa vẽ hoa và đội
nón lá.
Trong
một tiếng rưỡi đồng hồ âm nhạc
đã mang tất cả chúng tôi ra khỏi Sàigòn. Đó là thời
khoảng dài nhất trong suốt cuộc lưu ngụ mà
tôi đã có thể quên đi các khác biệt giữa chính tôi
và những người quanh tôi.
***
Các
Cuộc Biểu Tình
Một
khía cạnh kỳ quặc của các lá thư từ quê nhà
là cái nhìn của chúng cho rằng chúng tôi đang sống trong
một sự nguy hiểm thường trực. Chắc chắn
trong năm 1964 đã có các cuộc biểu tình chống lại
chính phủ [Nguyễn] Khánh, và người dân bị giết
chết trong các sự rối loạn trên đường
phố. Các sinh viên đi với nhau thành các nhóm, mặt mày
cau có, cầm gậy gộc và gạch đá; và cảnh sát,
trong khi giải tán các nhà sư và ni cô Phật Giáo phản
kháng, được biết đã bị thương và
đôi khi bị giết chết. Nhưng chúng tôi không nhìn
thấy khủng bố và cảnh tượng bạo động
gần nhất mà chúng tôi chứng kiến là sáng Chủ Nhật
trước Ngày Lễ Tạ Ơn Thanksgiving, khi chúng tôi bị
kẹt trong một chùm hơi cay làm chảy nước mắt
tràn xuống khu phố chúng tôi, các hộp hơi cay vừa được
ném bởi các binh sĩ trong quân phục tác chiến đầy
đủ, ngăn chặn một đám người nhỏ
cầm biểu ngữ đến trông chừng lễ tuyên
thệ của tân chính phủ dân sự. Làn hơi cay châm
chích vào mắt, cổ họng, và buộc chúng tôi phải quay
vào trong nhà. Sau này, tại một bữa ăn tối, một
nhân viên Cơ Quan Tình Báo Hoa Kỳ (CIA) xác nhận rằng Việt
Cộng có đứng đàng sau các cuộc biểu tình.
Cuộc
biểu tình lớn nhất chúng tôi nhìn thấy là vào một
buổi sáng trong Tháng Tám. Chúng tôi nghe thấy tiêng hát và chạy
ra ngoài cổng để nhìn thấy hàng nghìn sinh viên
đang đi bộ trên đường Pasteur, dẫn đầu
bởi các giáo sư và các sinh viên giũ trật tự với
băng đeo tay màu cam và vàng. Họ tưởng niệm
cái chết của một thiếu nữ Việt Nam đã
tự thiêu một năm trước đó. Nhưng cuộc
diễn hành đó không chỉ là một buổi tưởng
niệm; các người biểu tình đang đòi hỏi
dân chủ, cởi mở tôn giáo, một quốc hội
đại diện dân chúng – sự loại bỏ chế
độ độc tài quân phiệt. Một nhóm khoảng
25,000 người đã đi đến Phủ Chủ Tịch.
Chủ Tịch [Nguyễn] Khánh đã phạm phải một
lỗi lầm khi ra đối diện với các lãnh tụ
sinh viên. Ông ta trông nhỏ bé và thiếu uy nghi với chòm râu
dê lưa thưa và đôi vai xuôi xuống của ông. Ông ta
trèo lên một chiếc xe màu xanh lá cây để nói. Một
sinh viên vung vẩy bản sao Hiến Chương Vũng Tầu
mà ông Khánh vừa ban hành để thiết lập thẩm
quyền của ông (các sinh viên sau này đã châm lửa đốt
nó). Ông Khánh nói năng không mạch lạc, hô to các khẩu
hiệu về tự do và chiến đấu chống quân
thù. Các cân vệ, không mang vũ khí và bị hoang mang, và toán
sinh viên giữ trật tự đeo băng ở cánh tay, xô
đẩy đám đông, và sau mười phút, ông Khánh lùi về
và biến mất vào trong Phủ.
Các
phóng viên trèo lên các cây cối để nhìn rõ hơn. Chúng
tôi đứng cạnh một ni cô Phật Giáo choàng khăn
che đầu màu xám và một thiếu nhi tu đạo. Một
thiếu nữ với hàm răng xấu được cảm
thấy đang sờ soạng một cách vụng về
bên hông chiếc váy của tôi hầu tìm chiếc túi để
móc. Tôi chụp lấy tay cô ta và lắc đầu, một
phần vì chiếc váy không có túi. Và rồi một lượng
nước mưa đổ xuống đột nhiên làm tan
vỡ đám đông. Cơn mưa to làm tất cả chúng
tôi ướt sũng và thật là vô ích để tìm chỗ
trú mưa. Buổi chiều hôm đó tin tức cho hay ông
Khánh đã từ chức và rằng hội đồng quân
sự sẽ tuyển chọn một quốc trưởng
và sắp xếp các cuộc bàu cử cho một quốc hội.
Ông Khánh trong thực tế đã kiểm soát chính phủ
Sàigòn trong hơn sáu tháng nữa. Ông sau đó bị buộc
phải chạy ra ngoài nước sau cuộc đảo
chính được âm mưu bởi Đại Tá [Phạm
Ngọc] Thảo. (Trong một sự tường thuật
năm 1983, ông Khánh đang trông coi một nhà hàng nhỏ tại
West Palm Beach, sông với các bức hình và đồ kỷ niệm
xa xưa).
Chúng
tôi đi bộ về nhà tối hôm đó qua các đường
phố hoang vắng, mệt mỏi vì sự căng thẳng.
Một ngày trước đó một trái bom tại rạp
Chiếu Bóng Eden đã làm chết một người
đàn ông đi ngang qua trên một chiếc xe gắn máy.
Ngày sau đó, một “trái mìn plastic” được gài trên tầng
thứ năm của Khách Sạn Caravelle làm bị
thương năm người khách. Ba ngày sau đó, trong
các cuộc đánh nhau trên đường phố giữa
các sinh viên với đám du côn bằng gậy gộc và dao,
một cậu bé mười bốn tuổi trượt té
khi chạy và bị chém nát người.
***
Tính
Bài Ngoại
Huế
là đế kinh cổ xưa của Việt Nam, nơi mà
triều đại của vua Gia Long khởi đầu từ
năm 1802 và chấm dứt vào năm 1954. Để cự
tuyệt các người Âu Châu tại Á Châu, Hoàng Đề
Gia Long và người kế ngôi, vua Minh Mạng, đã theo
đuổi một chính sách cô lập. Huế được
xây cất như một thành phố có tường thành bao
quanh, như Bắc Kinh, và chế độ của nó mang
tính chất Khổng học, được kiến trúc một
cách chặt chẽ và cứng ngắc, không dung chấp sự
canh cải hay Tây Phương.
Huế
thuộc miền trung Việt Nam, gần vĩ tuyến Thứ
Mười Bẩy. Ông Hồ Chí Minh sinh ra ngay gần
đó, nơi cha của ông ta là một quan chức trong triều
đình và nơi ông Hồ đã theo học một trường
của Pháp vào một thời khoảng có sự chống
đối và xáo trộn chính trị.
Huế
là địa điểm của hai trong các thảm họa
chua chát nhất của Cuộc Chiến Tranh Việt Nam.
Trong đợt công kích Tết Mậu Thân hồi Tháng Một
1968, khi quân cộng sản bao vây tất cả các căn cứ
của Hoa Kỳ và Nam Việt Nam cùng một lúc, trận
giao tranh ở Huế trở thành cuộc tắm máu tàn khốc
nhất của cuộc chiến, với các sự ác độc
chưa từng thấy được thực hiện
trong hai mươi lăm ngày quân cộng sản chiếm giữ
thành phố.
Sớm
hơn, trong Tháng Năm 1963, lời kêu gọi thống nhất
dân tộc của Phật Giáo được đưa ra tại
Huế, nơi nhiều nghìn người tụ tập
để kỷ niệm ngày Phật đản sinh. Viên thị
trưởng theo Công Giáo đã ra lệnh cho năm chiếc
xe bọc sắt đến giải tán đám đông, và một
phụ nữ cùng tám trẻ em bị giết chêt. Các cuộc
phản kháng trong ít tuần lễ kế đó được
tiếp nối bởi sự đàn áp thô bạo hơn của
chế độ Ngô Đình Diệm. Trong Tháng Sáu 1963, nhà sự
Phật Giáo đầu tiên đã tự thiêu trên một đường
phố ở Sàigòn để phản đối lại
chính quyền của ông Diệm.
Một
năm sau đó, chúng tôi đã đến Huế trong hai
ngày, do lời lời của một vị bác sĩ người
Đức thích làm thơ giảng dạy tại trường
y khoa, là kẻ muốn chỉ cho chúng tôi vẻ đẹp
của các đền chùa và cung điện ở Huế.
Sau đó chúng tôi được đưa đến hàng
hiên của một câu lạc bộ thể thao bỏ trống
để dùng bữa trưa và kế đó về ngôi nhà nhỏ
của chủ nhân để nằm ngủ trong chiếc
màn che muỗi trong cơn nóng dữ dội của đầu
buổi trưa. Vào khoảng ba giờ chúng tôi đi ra ngoài
để tản bộ.
Chúng
tôi thả bước dọc một con đường
đất bên cạnh một con sông hẹp, đầy
bùn. Một ít người và xe cộ di chuyển chậm
chạp. Sau khoảng mười lăm phút, chúng tôi đã
thu hút một đám nhỏ các trẻ em.
Thoạt
tiên chúng giữ im lặng. Một số mặc quần áo
bằng vải cũ kỹ, và các đứa khác, kẹp
mình ngang hông các người chị của chúng, không mặc
gì cả. Chúng theo bước chúng tôi, lúc đầu ở
phía sau, và sau đó bên cạnh chúng tôi, và ngắm nhìn chúng tôi
với đôi mắt của người già cả, đáng
gờm ngay dù một số trong chúng đang nhe răng
cười toe toét. Đám đông gia tăng và bắt đầu
hò hét “Mee [Mỹ]-Hello-OK”. Tôi trở thành đối tượng
cho sự chú ý của chúng. Một vài đứa đá các
viên đá vào các bàn chân của tôi. Một ít đưa trở
nên táo tợn hơn và chạm vào tôi, sờ vào đôi cánh
tay trần của tôi. Các đứa khác bắt đầu
ném các hòn sỏi vào lưng và cẳng của tôi. Bao quanh sát
viền đám đông, cha mẹ chúng đã nhập đoàn,
với các khuôn mặt buồn bã và tay khoanh lại, ngắm
nhìn một cách chủ ý mà không kêu gọi con họ ngừng
lại.
Một
cơn tức giận trào lên trong cổ họng của
tôi. La lớn đứa bé gái khoảng năm tuổi, gần
nhất và đẩy nó ngã xuống đất, đứa nhỏ
đã chụp lấy đằng sau váy của tôi. Việc
này gây ra sự hò hét nhiều hơn. Một dự kiến
hiện lên trong đầu tôi về việc đẩy toàn
thể đám đông xuống con sông đầy bùn bằng
vòi nước cứu hỏa. Các người bạn đồng
hành khuyến cáo rằng tôi nên tỏ ra không quan tâm đến,
và vị chủ nhân của chúng tôi đã cố gắng ra lệnh
cho chúng đi khỏi bằng tiếng Việt. Sau cùng chúng
tôi đã vẫy tay gọi một chiếc xe xich lô đạp
[cyclo-pousse, tiếng Pháp trong nguyên bản, chú của người
dịch] và quay về nhà.
Tôi
không nhớ điều gì khác nữa về cuộc thăm
viếng. Nhiều năm sau này, có một báo cáo cho hay rằng
sau cuộc tấn công Tết Mậu Thân, thi thể của
một bác sĩ người Đức, vợ của ông,
cùng hai đồng nghiệp người Đức cùng giảng
dạy tại trường y khoa Huế được tìm
thấy tại một hố không sâu.
Có
những lúc ở Sàigòn mà chúng tôi cũng phải bật lên
tiếng cười và tự quy trách. Có một buổi chiều
chúng tôi đã thử chở hai người trên một chiếc
xe đạp Sàigòn mong manh và chiếc xe xấu số bị
gập thành đôi. Chiếc xe này đã phát ra các tiếng
kẽo két vang dội, và trong thực tế là việc
đáng buồn cười. Các người Mỹ cũng
bị cười ngạo nếu mắc phải cơn
mưa lớn. Một lần tôi gọi taxi đến khu
phố Tàu để điều tra về một hãng sản
xuất đàn dương cầm và vội vã rời đi
khi thấy nó quá thơ sơ đối với các nhu cầu
của tôi. Một nhóm trẻ em trên vỉa hè gõ vào các cửa
sổ của xe taxi và mở cánh cửa khi xe chạy
đi. Chúng la lên một sự nguyền rủa với giọng
điệu đều đều trước khi người
đàn ông già cả chế tạo các chiếc dương cầm
ra lệnh cho chúng quay trở lại cửa hiệu.
Mặc
dù thế, Sàigòn vẫn có một nét tao nhã gây ngạc nhiên,
điều gì đó giống như sự thanh lịch của
các bà già của [kịch tác gia] Tennessee Williams, các người,
sáng tạo ra sự cứu rỗi của chính họ, những
kẻ không nhận được sự tán tỉnh, đã
cố gắng duy trì một vẻ lãng mạnh về quá khứ
của họ. Tại Sàigòn, sự ve vãn tán tỉnh được
sinh ra từ nhu cầu hỗ tương; sự thù nghịch
tự nhiên của người Việt Nam đối với
một sự hiện diện ngoại quốc bị tắt
tiếng, tuy hiện diện khắp nơi nhưng được
ngụy trang, được làm ra mơ hồ bởi lịch
sử của thành phố phát sinh từ các hè phố của
đường Catinat [tức Tự Do khi đó, và Đồng
Khởi hiện nay, chú của người dịch] và các
tòa nhà và trường học thanh nhã do người Pháp xây dựng
cũng như quân đội và đường xá mới
sáng chói được đóng góp bởi người Mỹ.
Trong một thời gian rất lâu Sàigòn đã nói tiếng Việt
với một âm sắc ngoại lai.
Việt
Nam cổ xưa phát khởi tại Huế và đã quất
vào mặt chúng tôi.
Trong
ngày cuối cùng của chúng tôi tại Sàigòn, các nhân viên và bè
bạn chúng tôi tháp tùng chúng tôi ra phi trường. Các bức
ảnh chụp của chúng tôi cho thấy rằng mọi
người đều cười. Nhưng tôi nhớ là
đôi mắt họ trông buồn bã và lo lắng:
tương lai xem ra xám xịt và bất ổn. Tôi nhớ
bắt tay Chị Hai và Chị Ba, nghĩ về các bộ âu
phục vải len may tại Sàigòn và quần áo bằng lụa
Thái Lan trong các va li của chúng tôi, các bức tranh và vải
vóc cùng các bức tranh rập in [cà trên mặt khắc] của
Căm Bốt được chở về nhà. Nửa giờ
sau khi đám đông rời đi, chúng tôi chờ đợi
một chiếc máy bay trễ giờ. Tôi lướt nhìn một
cách lặng lờ các kẻ xa lạ quanh chúng tôi: các nông dân
với các chiếc rổ bằng rơm bó lại, và các hộp
thức ăn và các đứa bé đang nằm ngủ; các người
lính hút thuốc và dạo bước; các gia đình ăn mặc
theo thời trang đang thương thảo với các nhân
viên du lịch với vẻ nóng nảy được kiềm
chế. Khi tôi nhìn chung quanh, tôi đột nhiên bị quất
bởi một biến cảm mạnh mẽ đối với
mọi người có mặt tại chỗ, một thành kiến
mù quáng chống lại toàn thể người dân, toàn thể
xứ sở.
Những
kẻ chung quanh đó không hay biết và không quan tâm. Viên chức
trong quân phục, kẻ đã trả lại các giấy tờ
của chúng tôi bằng cái gật đầu cụt ngủn,
mở hàng rào cao bằng dây kẽm đan vào nhau là cổng
khởi hành, vội vã đẩy chúng tôi bước qua và
khép nó lại đàng sau chúng tôi với một tiếng khóa
cổng kêu leng keng./-
_____
Nguồn:
Tela Zasloff, Saigon Dreaming, Granta 26, Travel, Spring 1989,
các trang 181-193.
Ngô
Bắc dịch và phụ chú
01.08.2011
Nguồn
http://www.gio-o.com/NgoBac.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét