Thạch Quỳ
Dặm khách muôn nghìn nỗi nhớ nhung
Mượn ai tới đấy gửi cho cùng
Chữ tình chốc đã ba năm vẹn
Giấc mộng rồi ra nửa khắc không!
Xe ngựa trộm mừng duyên tấp nập
Phấn son càng tủi phận long đong!
Biết còn mảy chút sương đeo mái ?
Lầu nguyệt năm canh chiếc bóng chong!
Bài thơ này có tên là “Cảm cựu kiêm trình cần chánh học sĩ Nguyễn hầu”
(Nhớ
 người cũ,viết gửi cần chánh học sĩ Nguyễn hầu). Hồ xuân Hương còn cẩn 
thận ghi thêm một giòng chú thích “Hầu,người làng Tiên Điền, huyện Nghi 
xuân”. Ông họ Nguyễn làm quan, giữ chức Cần chánh học sĩ có tước hầu, 
lại là người làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân thì chắc chắn đấy là Nguyễn
 Du, tác giả truyện Kiều được Gia Long ban tước “Du-Đức hầu” vào năm 
1810, chứ không thể ai khác! Năm 1810, Nguyễn Du đang làm Cai bạ ở Quảng
 bình, Gia Long gọi về kinh thăng chức” Cần chánh học sĩ” và phong tước 
hầu. Hồ xuân Hương nghe “tin mừng”đó, lòng đầy cảm xúc, xốn xang chuyện 
cũ nên viết bài thơ này mong gửi tới “người xưa”. Bài thơ nói “Chữ tình 
chốc đã ba năm vẹn” tức là mối tình của hai người đã nẩy nở dan díu vào 
quãng 1806-1807, khi Nguyễn Du làm tri phủ Thường tín ở ngoài Bắc,lúc 
bấy giờ Nguyễn Du trên dưới 40 tuổi và Hồ xuân Hương trên dưới 30 tuổi, 
họ cách nhau xấp xỉ 10 tuổi. Vậy là đến 1810, Hồ xuân Hương quãng 33 
tuổi hãy còn ở “Cổ nguyệt đường” tại phường Khán xuân, có lẽ mẹ đã mất, 
một mình một bóng, chưa có mối tơ duyên nào khác, ngoài mảnh tình xưa mà
 nay thì “Dặm khách muôn ngàn nỗi nhớ nhung”. Đọc bài thơ ta thấy lòng 
nàng cô đơn, cô quạnh pha chút hờn dỗi, tủi thân, người thì “Xe ngựa 
trộm mừng duyên tấp nập” ta thì “Phấn son càng tủi phận long đong”! Và 
cái chữ tình “chốc đã ba năm vẹn” đó nay đã hoá thành “Giấc mộng rồi ra 
nửa khắc không”!
Biết còn mảy chút sương đeo mái…



 

